Tu luật thánh Biển Đức
Chương 14 – Cầu nguyện chung
Một câu hỏi được đặt ra, hay đúng hơn là tự nó hiện lên: tại sao lại cần đến sự tỉ mỉ đến vậy?
Giữa mười ba chương bàn về phụng vụ và cầu nguyện, hôm nay chúng ta gặp chương 14 nhỏ bé, nói về cách cử hành kinh Canh Thức vào ngày lễ các thánh. Tự thân nó, đoạn ngắn này không dạy chúng ta nhiều điều, ngoại trừ sự tỉ mỉ mà thánh Biển-đô tổ chức việc cử hành Thánh Lễ, đi sâu tới từng chi tiết nhỏ nhất. Và chính điều đó khiến chúng ta đáng để dừng lại một chút, nhìn vào sự tỉ mỉ tưởng chừng quá cẩn thận ấy.
Thực hành phụng vụ đã trải qua nhiều thời kỳ khác nhau. Có lúc, phụng vụ dường như chỉ là một chuỗi các chỉ dẫn tỉ mỉ, những mục lề luật, mà người ta phải thực hiện đúng từng chữ. Rồi, như một phản ứng tự nhiên, lại xuất hiện một thời kỳ khác, khi người ta nghĩ rằng có thể thực hiện một phụng vụ tự phát, nơi ý tốt và cảm hứng cá nhân được coi như nguyên tắc nền tảng, thay thế cho cách thực hành cũ. Ở đây cũng bộc lộ những giới hạn. Chính vì thế, câu hỏi về tổ chức phụng vụ mà thánh Biển Đức bàn sâu, trở nên thiết yếu.
Thực ra, có một con đường, một lối đi như sống lưng, nằm giữa sự nghèo nàn của phụng vụ tự phát, vốn chỉ phơi bày sự nghèo tưởng tượng của chúng ta, và khuôn khổ rập khuôn của các mục lề, vốn bóp nghẹt những người cử hành. Sự cân bằng này chính là điều thánh Biển Đức đề xuất. Để hiểu được, không nên dừng lại ở hình thức cử hành, mà cần đi sâu vào bản chất. Phụng vụ không phải chỉ là tôn thờ một cá nhân, mà là của cả cộng đoàn, là biểu hiện cụ thể của lời ca tụng Thiên Chúa.
Ở đó chúng ta thấy chìa khóa để hiểu thái độ của thánh Biển Đức: trong Thánh Lễ, không phải trước hết là để mỗi người cử hành tốt nhất cho chính mình, mà là để tổ chức một cử hành chung, phải tuân theo những luật lệ mà tất cả sẽ đồng thuận, không chỉ bằng kỷ luật bên ngoài, mà như một nhu cầu cho công trình chung: Opus Dei, tác phẩm của Thiên Chúa, vốn trong Thánh Lễ, là một công trình chung. Và vì cộng đoàn chỉ có thể cử hành công trình ấy nếu mỗi người, đúng vị trí của mình, hài hòa cùng nhau, nên ai cũng cần biết và chấp nhận vị trí của mình, biết đứng đúng, không chỉ bên cạnh mà cùng với những người khác đang cử hành.
Điều này, thoạt nhìn có vẻ hiển nhiên, nhưng kinh nghiệm cho thấy đó là một nhu cầu tinh tế, khó thực hiện. Cử hành cộng đoàn đòi hỏi cùng lúc hai thái độ: một cam kết sâu sắc cá nhân và một mềm dẻo đủ để tuân theo yêu cầu chung. “Cùng lúc” – không phải kiểu “cùng lúc” mà các phương tiện truyền thông thường lặp đi lặp lại. Đây là một “cùng lúc” sâu sắc hơn: một đức hạnh, theo nghĩa triết học và thần học luân lý, nơi hai phẩm chất tưởng chừng đối nghịch hòa hợp, tìm được sự thống nhất trong trái tim con người được giáo dục. Vâng, trong phụng vụ, phải vừa dấn thân cá nhân sâu sắc, vừa nhập vào yêu cầu chung với sự mềm dẻo. Thường người ta chỉ có một trong hai, nhưng hòa hợp cả hai không hề dễ dàng. Đức hạnh này, như mọi đức hạnh khác, là một habitus, hình thành nhờ lặp đi lặp lại hành động, với trí tuệ và ý chí. Nói cách khác: muốn đạt được hòa hợp này, phải luyện tập.
Phụng vụ vì thế là một mảnh đất thử nghiệm và cũng là trường học vừa cho đời sống cộng đoàn, vừa cho dấn thân cá nhân. Chúng ta có thể nhân cơ hội này tự hỏi: mình thiên về phía nào dễ dàng hơn, và cần sửa chữa, điều chỉnh, thậm chí sáng tạo gì để tìm được sự cân bằng.
Tiếng hát, cử chỉ, lời nói là nơi chúng ta vừa bày tỏ con người mình, vừa học cách thực hiện điều đó cùng người khác, trong một thể thống nhất. Vì đời sống cộng tu không thể tách rời cộng đoàn mình hình thành. Nếu chúng ta chưa nhận thức điều này trong phụng vụ, thường cũng là vì chưa nhận thức trong đời sống hằng ngày. Do đó, phụng vụ như tấm gương cho khả năng sống cùng nhau cách cân bằng, và là điểm khởi đầu để điều chỉnh những lệch lạc, cải thiện đời sống cộng đoàn.
Một cử hành phụng vụ đẹp không chỉ, và cũng không trước hết, là thành công về mặt thẩm mỹ, mà là cơ hội cho cộng đoàn bày tỏ khả năng cùng nhau ca tụng Thiên Chúa, thực hiện cụ thể, giúp đỡ nhau để cùng làm điều đó. Điều này đòi hỏi thích nghi liên tục, và Thánh Lễ hôm qua, lễ Cung Hiến, là một thành công tốt trong ý nghĩa này, sử dụng tốt phương tiện chúng ta có: khi không còn đàn organ, còn lại tiếng hát. Tất nhiên, điều này đòi hỏi lao động và các giờ tập hát.
Điều chúng ta cố gắng thực hiện trong phụng vụ, tất nhiên cũng cần thực hiện trong đời sống thường nhật, hai bên bổ trợ cho nhau, góp phần tích hợp phụng vụ vào đời sống hằng ngày, và biến đời sống thường nhật thành cầu nguyện.
Chương 49 – Giải phóng khát vọng sâu xa của con tim
Mùa Chay, suốt cả năm!
Viễn cảnh mà chương 49 đưa ra thật chẳng mấy hứng khởi. Thế nhưng, đó chính là điều thánh Biển Đức khuyên nhủ: «Đời sống của đan sĩ phải luôn luôn giữ kỷ luật như trong Mùa Chay». Than ôi, chúng ta còn xa mới đạt được như thế! Nhất là giữa mùa hè… khi thiên hạ đều đi nghỉ mát…
Chương «Về việc giữ Mùa Chay» dĩ nhiên nói đến chính Mùa Chay. Nhưng nếu hôm nay ta đọc lại, không chỉ vì bản Luật được phân chia để đọc liên tục ba lần trong năm, mà sâu xa hơn, vì ta có thể rút ra bài học cho bất cứ thời điểm nào trong năm. Bởi nếu đời sống của đan sĩ luôn phải nghiêm nhặt như trong Mùa Chay, thì ở bất cứ lúc nào, ta cũng có điều để học từ kỷ luật của Mùa Chay. Không chỉ ở khía cạnh thực hành bề ngoài, nhưng sâu xa hơn, ở ý nghĩa của những chọn lựa, của cách sống chúng ta.
Hãy ghi nhận vài điểm then chốt. Trước hết, thánh Biển Đức nói: «Chúng ta hãy thêm điều gì đó». Ngài nói về Mùa Chay: «Vậy trong những ngày này, chúng ta hãy thêm điều gì đó vào công việc thường nhật của việc phụng sự chúng ta». Điều được nói cho Mùa Chay, chẳng lẽ hôm nay ta không nên nghe cho chính mình sao? Vâng, hãy tỉnh dậy ngay lúc này, thêm điều gì đó vào thói quen thường ngày trong việc phụng sự. Đừng để mình mắc kẹt trong những chuyện lặt vặt, những thoả hiệp nhỏ nhoi, những tranh cãi vụn vặt. Hãy trở lại với công cuộc lớn lao và tuyệt đẹp mà Thiên Chúa đã kêu gọi ta. Nhưng hãy thật sự trở lại, trở lại cách trọn vẹn! Dĩ nhiên, chúng ta chưa bao giờ bỏ bê hoàn toàn: Phụng vụ vẫn được cử hành, đời sống hằng ngày vẫn duy trì, với cầu nguyện là mục đích. Nhưng phải chăng chúng ta đã quá nhạt nhòa trong việc phụng sự, để lòng mình bị cuốn hút quá nhiều bởi những thứ khác? Cần phải trở lại với công cuộc phụng sự cao quý của Thiên Chúa, bằng cách đặt lại con tim vào đó.
Vì chính con tim mới là cốt lõi. Thánh Biển Đức giải thích tiếp trong chương 49. Cần phải thêm điều gì đó; nhưng thêm gì? «Mỗi người, – ngài nói – mỗi người sẽ tự nguyện dâng lên Thiên Chúa […] một việc đạo đức vượt mức thông thường». Điều chúng ta thêm vào phải là tự nguyện, không bị ép buộc, nhưng tự do, phải xuất phát từ chính ta. Để việc phụng sự dâng lên Đấng Tối Cao có thể đẹp lòng Người, nó phải đến từ con tim, phải là biểu lộ của tình yêu. Một tình yêu vụng về, chập choạng, xuất phát từ con tim nghèo nàn của ta, vẫn quý giá hơn muôn lời hoa mỹ vô hồn. Trong cầu nguyện, cha Dom Boylan đã viết: phải tránh xa những câu văn bóng bẩy như tránh dịch hạch. Vì thế, ta phải bắt đầu từ tình cảnh thật của chính mình, từ thực tại đời sống mình, và xem ta muốn thêm điều gì để đáp lại tình yêu Thiên Chúa đang kêu gọi. Một cử chỉ tự do, thật sự phát xuất từ chính ta.
Nhưng lời khuyên của thánh Biển Đức không dừng ở đó: nếu mỗi người phải tự do chọn điều mình thêm vào, thì «tuy nhiên, – tôi xin trích lại lời thánh Biển Đức – mỗi người sẽ trình bày cho viện phụ điều mình dự định dâng lên Thiên Chúa, và chỉ hành động với sự chấp thuận và lời cầu nguyện của ngài». Với thánh Biển Đức, việc chọn lựa tự do không hề mâu thuẫn với việc trình bày cho viện phụ. Trái lại! Được viện phụ chấp thuận – đó chính là kết luận của chương này – là điều mở ra cho đan sĩ con đường tự do thật. Bởi vì nó giúp phân định giữa hai dạng ý muốn: ý muốn tự do và ý riêng; mà ý riêng chỉ là một thứ ý muốn giả vờ tự do.
Xin giải thích: nếu tự do có nghĩa là làm điều mình muốn, thì tự do thật sự là làm điều mình thật sự muốn, tận sâu bên trong. Để chạm tới chiều sâu đó, ta phải đi xuyên qua nhiều tầng lớp mong muốn, thường làm ta mù quáng, giữ ta ở mức nông cạn. Làm sao biết được điều ta muốn thật sự là một hành động sâu xa của ý chí hướng về Thiên Chúa, chứ không phải chỉ là một chuyển động hời hợt, dù có vẻ đạo đức, nhưng lại phát xuất từ sự tự phụ hay phù phiếm? Thánh Biển Đức đề nghị một phương thế đơn sơ mà hiệu nghiệm: trình bày với viện phụ điều mình dự định làm. Hiệu quả không nằm ở phẩm chất cá nhân của viện phụ, mà ở vai trò mà ngài giữ đối với anh em. Chính sự chấp thuận của viện phụ bảo đảm cho ta sự tự do thật.
Trở về từng bước với ý chí sâu xa nhất của mình, đó là điều khai mở nơi ta nguồn mạch của niềm hoan lạc. Thánh Biển Đức nói tới niềm «hân hoan của khát vọng thiêng liêng». Hân hoan! Nhưng không phải bất cứ ước muốn nào cũng đem lại hân hoan. Một ham muốn giác quan chỉ đem lại khoái cảm. Hân hoan chỉ phát sinh từ khát vọng thiêng liêng, và chỉ khi nó thật sự sâu thẳm. Bởi khi đó, nó đặt ta vào chiều hướng nền tảng nhất của hữu thể. Khi tất cả được hòa hợp, khi ta được thúc đẩy bởi ý chí sâu thẳm nhất, tương ứng với định hướng nền tảng của mình, lúc ấy ta «cộng hưởng»: con tim mở rộng, đó chính là hân hoan.
Hân hoan, nhưng chưa phải thiên đàng. Cha de Vogüé dịch «désir spirituel» (khát vọng thiêng liêng) thành «désir de l’espérance» (khát vọng của niềm hy vọng), rất phù hợp với điều thánh Biển Đức nói: đan sĩ sẽ mong đợi lễ Phục Sinh thánh với niềm hân hoan của khát vọng thiêng liêng.
Mọi điều chúng ta thêm vào hay bớt đi, dù trong Mùa Chay hay ngoài Mùa Chay, đều phải giúp ta tìm lại và đào sâu định hướng về Đức Kitô, Đấng là Lễ Vượt Qua của ta, Đấng cứu độ ta khi dẫn ta vào mầu nhiệm Tử Nạn và Phục Sinh của Người. Đây chính là điểm nền tảng của đức tin Kitô giáo. Nhưng mầu nhiệm Vượt Qua có thật sự là trung tâm, là động lực của đời ta không?
Thực ra, tôi có thể tự hỏi: tôi có thật sự là Kitô hữu không? Hay chỉ là một người tin mơ hồ vào một cái gì đó vượt trên mình? Hay tôi là môn đệ của chính con người Đức Giêsu Kitô, một môn đệ muốn bước theo Người, đi vào mầu nhiệm Vượt Qua để tiến tới Phục Sinh?
Đây không phải là một câu hỏi lý thuyết, mà hoàn toàn là một vấn đề thực hành, bởi lẽ, tuỳ câu trả lời, đời sống hằng ngày của ta sẽ rẽ theo hướng này hay hướng khác. Nếu mầu nhiệm Vượt Qua không phải là trái tim đời ta, là điều ban ý nghĩa cho tất cả những gì ta làm, tất cả những gì xảy đến, thì chẳng mấy chốc ta sẽ va chạm với sự phi lý.
Nếp sống mà ta đã chọn chỉ có ý nghĩa và lý do tồn tại nhờ vào sự chết và Phục Sinh của Đức Kitô; nếu trong thực tế ta cư xử như thể điều đó chỉ là lý thuyết, thì tất cả những gì ta làm đều mất hết ý nghĩa, và chẳng cần tìm đâu xa để hiểu tại sao ta gặp bao khó khăn trong đời sống hằng ngày.
Đọc lại chương về Mùa Chay, chính là đặt lại cách đúng đắn và dứt khoát thân phận đan sĩ của mình: đan sĩ là người, qua những cử chỉ nhỏ bé, cụ thể, tự do chọn lựa và xin phép sự chấp thuận của viện phụ, dần dần giải thoát khát vọng sâu xa nhất nơi con tim, để tìm lại định hướng nền tảng nơi Đức Kitô, Lễ Vượt Qua của ta. Nhờ thế, ngài có thể tiếp tục bước theo Đức Giêsu, với niềm xác tín rằng mình sẽ chẳng thiếu thốn gì, nếu thật sự tin vào Đấng đã kêu gọi mình.
Chương 66 – Cổng tu viện
Cha Thánh Tổ phụ Biển Đức của chúng ta đã lầm chăng ? Chương 66 mà chúng ta vừa nghe, thay vì : « Về những người giữ cửa đan viện », lẽ ra không phải nên được đặt tựa là : « Về cửa đan viện » sao ? Bởi vì chính điều đó mà thánh Biển Đức đang nói đến ở đây. Chẳng phải chương này cũng đã bắt đầu bằng những lời : « Tại cửa đan viện » đó sao ? Cửa – đó là một yếu tố quan trọng. Sẽ chẳng có kiến trúc sư nào nói ngược lại.
Tại sao lại có một cánh cửa ? Bởi vì con người cần có một đời sống nội tâm. Và để đời sống nội tâm ấy khả hữu, cần phải có một không gian nội tâm. Đó chính là điều mà kiến trúc tạo nên. « Thuở ban đầu, kiến trúc sư đã tách biệt bên trong và bên ngoài. Qua một buổi chiều, và một buổi sáng. Và kiến trúc sư thấy rằng điều ấy là tốt đẹp. » Nhưng rồi, cần phải có cách để bên trong và bên ngoài có thể giao tiếp. Vậy nên, vào ngày thứ hai, kiến trúc sư đã tạo ra cánh cửa.
Đó chính là câu chuyện, là lý do tại sao đan viện lại có một cánh cửa : nó là điểm nối kết giữa bên trong và bên ngoài.
Một cánh cửa nên đóng hay mở ? Về căn bản, cửa không được tạo ra để đóng kín, mà để mở ra. Những yếu tố xây dựng không mở ra được, đó không phải là cửa, mà là tường. Cửa được dựng nên để mở ra, nhưng không phải mở cách tùy tiện, nhất là trong một đan viện. Và chính điều này là trọng tâm của chương 66.
Thánh Biển Đức thấy rõ một sự hiển nhiên : người ta có thể đi qua cửa theo cả hai chiều. Cửa vừa là lối để người ngoài đi vào, vừa là lối để người trong đi ra. Do đó, chương này có hai phần. Người từ bên ngoài thì phải được tiếp đón. Dù giàu hay nghèo, họ cần gặp được ai đó để nói chuyện, và sẽ được đáp lại trong đức ái. Nhưng thánh Biển Đức nói rõ : việc tiếp đón này, khi thực hiện các bổn phận của đức ái, phải đồng thời ngăn không để người ngoài đi vào bên trong đan viện.
Còn những người ở bên trong – tức là các đan sĩ – thì phải tránh không đi ra ngoài. « Đan viện phải được sắp xếp sao cho ở đó có mọi sự cần thiết […]. Như vậy, các đan sĩ sẽ không cần phải ra ngoài. »
Thánh Biển Đức thiết lập rất rõ một sự phân biệt, thậm chí một ranh giới : đan sĩ ở bên trong, người đời ở bên ngoài. Và cửa chính là điểm nối chiến lược giữa hai thế giới.
Vậy tại sao, với tầm quan trọng như thế, tựa chương này lại không phải là : « Về cửa đan viện », mà lại là : « Về những người giữ cửa đan viện » ? Điều này nói lên một điểm rất đặc trưng nơi thánh Biển Đức : mối quan tâm của ngài luôn hướng về con người. Quả thật, ngài không ngần ngại đưa ra luật lệ về những khía cạnh vật chất của đời sống, nhưng điều luôn được đặt lên hàng đầu chính là con người, vai trò của họ, cách cư xử của họ, đời sống nội tâm của họ.
Thánh Biển Đức bắt đầu từ nơi chốn : « Tại cửa đan viện… », rồi ngay sau đó chuyển sang con người : « Người ta sẽ đặt ở đó một vị lão thành khôn ngoan ». Ở vị trí này, thánh Biển Đức thực sự phác họa chân dung một đan sĩ đã đạt tới một mức độ hoàn thiện. Như thế, không chỉ liên quan đến người giữ cửa, mà đến mọi đan sĩ. Xin hãy xem.
Phẩm chất thứ nhất : sự khôn ngoan – chỉ thế thôi ! Tôi chúc anh em có một hành trình học tập tốt.
Phẩm chất thứ hai : một khoảng cách nhất định đối với chính mình, đặc biệt là đối với những cảm xúc của bản thân. Tôi xin giải thích. Người giữ cửa phải biết tiếp nhận và trao lại một thông điệp. Thoạt nhìn, có gì bình thường. Thế nhưng, nếu nhìn kỹ, phải công nhận rằng điều đó không hề dễ. Nếu là một thông điệp viết, có vẻ dễ : cầm tờ giấy hay phong bì và đưa cho người nhận ; rồi làm điều ngược lại khi có hồi đáp – nhưng ngay cả ở đây cũng cần thận trọng, kẻo lầm người nhận, cần kín đáo, đừng tò mò nhìn vào nội dung, cần kiên nhẫn chờ câu trả lời để chuyển lại. Tất cả đều là những phẩm chất không dễ gặp. Suy cho cùng : biết bao thông điệp bị thất lạc, bao sự bất cẩn, bao sự thiếu nhẫn nại ! Người giữ cửa cần có những phẩm chất không tầm thường. Lại càng khó hơn khi là một thông điệp miệng : làm sao để truyền đạt chính xác, không phản bội điều được nhắn nhủ bởi giọng nói hay cách chọn từ sai lạc ? Và làm sao để chuyển lại câu trả lời cũng với sự trung thực như thế ? Điều này đòi hỏi khả năng làm chủ bản thân, biết phán đoán điều gì cần nói, nói thế nào, nói khi nào, nói cho ai, để thông điệp được chuyển đạt ; nhất là cần có sự tách biệt đối với cảm xúc của mình – điều kiện để có sự tinh tế và khách quan, nhờ đó ta chuyển đạt đúng nội dung đã nhận, chứ không phải chỉ là ấn tượng hay cảm xúc của ta về thông điệp ấy. Thử nhìn nhận : điều này đâu phải tự nhiên !
Người giữ cửa phải là người của sự liên hệ, phải tạo nên mối nối giữa hai người, mà không biến mình thành tấm màn che chắn họ. Tất cả chúng ta, suốt ngày, đều kinh nghiệm sự khó khăn trong việc tương quan hoặc đặt người này trong mối liên hệ với người khác. Đây là một học hỏi thường nhật, và đời sống đan tu trao cho chúng ta những phương thế quý giá – miễn là ta biết dùng đến.
Thánh Biển Đức còn nói đến sự trưởng thành nơi người giữ cửa, để giúp họ tránh khỏi sự nhàn rỗi. Trưởng thành nhân bản và thiêng liêng làm cho người này đã đồng hóa các giá trị đan tu, sống chúng từ bên trong. Vì thế, thánh Biển Đức không cần chất thêm cho Luật nhiều khoản luật chi li. Trái với Luật của Thầy, thánh Biển Đức đặt niềm tin nơi sự trưởng thành của các đan sĩ – nhưng điều đó đòi hỏi họ phải xây dựng trong chính mình những xác tín đan tu vững vàng ; và chính họ chịu trách nhiệm về điều đó.
Những đặc điểm khác : sự mau mắn trong hồi đáp, tâm tình tạ ơn (Deo gratias !), sự hiền lành phát sinh từ lòng kính sợ Thiên Chúa, đức ái, lòng sốt sắng. Đọc như thể thánh Biển Đức đã viết Luật của mình khi đang ngắm nhìn các người giữ cửa của Sept-Fons !
Và còn chi tiết này : « Nếu người giữ cửa cần giúp đỡ, thì cho họ một sư huynh trẻ hơn để hỗ trợ. » Biết nhìn nhận mình cần sự giúp đỡ đâu phải dễ ; xin sự giúp đỡ, lại càng khó hơn. Và đón nhận một sư huynh trẻ, với sự nhiệt thành, đôi khi cả sự bồn chồn của anh ta, rồi cố gắng đào tạo, kiên nhẫn giải thích, dần dần trao phó trách nhiệm cho anh ta – thật sự, người giữ cửa theo thánh Biển Đức quả là một bậc hiền nhân.
Mối bận tâm của thánh Biển Đức về con người, sự nhấn mạnh của ngài, cũng được tìm thấy trong phần hai của chương, liên quan đến việc bố trí đan viện. Thánh Biển Đức chỉ ra ý nghĩa thiêng liêng : đan viện phải có mọi điều cần thiết, để đan sĩ không phải ra ngoài, điều hoàn toàn không có lợi cho linh hồn họ. Mục đích sau cùng của toàn bộ tổ chức trong đan viện chính là linh hồn các huynh đệ.
Để linh hồn ấy được lớn lên, đan viện không thể là một nhà kính nơi những loài cây quý hiếm mong manh mọc lên, được bảo vệ khỏi mọi cơn gió – đó chắc chắn không phải là viễn tượng Biển Đức. Nhưng nó cũng không thể là một không gian phơi mở cho mọi luồng gió, nơi những giá trị chiêm niệm bị cuốn đi ngay từ cơn gió đầu tiên. Nó phải là một không gian được tổ chức khôn ngoan, cho phép sống cách thường hằng trong giới hạn của nó, và để mỗi khi phải ra ngoài thì luôn giữ một thái độ dè dặt.
Chính sự dè dặt này sẽ là dấu chỉ của việc chúng ta thực sự dấn thân. Nếu chúng ta tìm kiếm mọi dịp, dù tốt hay xấu, để ra ngoài đan viện, thì chúng ta chưa hiểu đan viện là gì. Nhưng nếu chúng ta đón nhận những lần ra ngoài không thể tránh, và luôn giữ tâm tình : điều chính yếu của chuyến đi là để trở về, thì khi ấy chúng ta đã bước vào tâm thế đan tu mà thánh Biển Đức mô tả nơi đây. Và điều đó sẽ mang lại ích lợi cho linh hồn chúng ta.
Chương 61 – Tiêu chuẩn cho thành viên mới
Ai có thể gia nhập cộng đoàn ? Đây là một câu hỏi sống còn : nếu không ai được chấp nhận, cộng đoàn sẽ nhanh chóng chết đi vì không có người kế thừa ; nếu ai cũng được chấp nhận, cộng đoàn có thể kéo dài thêm một thế hệ, nhưng kết cục vẫn sẽ như nhau : cộng đoàn sẽ chết, vì khi dần đánh mất bản sắc của mình, cộng đoàn không còn lý do để tồn tại. Vì thế, Thánh Biển Đức đã đặt ra câu hỏi đúng đắn : làm sao để đón nhận những thành viên mới ? Và đặc biệt, ai là người có thể được đón nhận ?
Năm chương liên tiếp đề cập đến vấn đề này, xét đến các trường hợp khác nhau : những ứng sinh đơn giản đến gõ cửa tu viện ; trẻ em, dù là con nhà quý tộc hay nghèo khó ; các linh mục muốn định cư trong đan viện ; và hôm nay, là các đan sĩ đến từ nơi khác.
Trong tất cả những trường hợp ấy, cần có tiêu chí. Dung mạo dễ mến của ứng viên là chưa đủ. Những tiêu chí này rất hữu ích : không chỉ áp dụng cho người muốn gia nhập, mà còn cho thấy tu sĩ là ai. Với mỗi nhóm đối tượng, một hoặc nhiều nét đặc trưng được đưa ra, giúp làm sáng tỏ bản sắc của chúng ta và những gì cần thực hiện để sống điều đó cách cụ thể.
Dĩ nhiên, chương 58 là cốt lõi : Về cách đón nhận các anh em. Vậy ta cần xem xét điều gì nơi một ứng sinh ? Thánh Biển Đức nói rõ : phải chú ý quan sát họ rất cẩn thận, và xét xem họ có thật sự tìm kiếm Thiên Chúa không. Đây là điểm then chốt : một tu sĩ phải sống trọn đời hướng về Thiên Chúa ; nếu họ không tìm kiếm Ngài, thì thất bại ngay từ đầu. Thánh Biển Đức nhấn mạnh : không chỉ là “tìm kiếm Thiên Chúa”, mà là thật sự tìm kiếm Ngài – đó có thật là động lực sâu xa khiến họ đến đan viện không ? Từ « thật sự » ở đây rất quan trọng, bởi có thể người ta tưởng rằng mình tìm kiếm Thiên Chúa mà kỳ thực không phải vậy. Giống như tôi, tôi từng muốn học tiếng Việt, nhưng không thật sự muốn, và kết quả thì quá rõ !
Thánh Biển Đức thêm ba tiêu chí phụ : phải xem người mới có lòng nhiệt thành – không phải một sự sốt sắng nhất thời, như rơm bén lửa, mà là nhiệt thành chân thật, do Thánh Thần thắp lên trong tâm hồn. Nhiệt thành vì điều gì ? Vì Công việc của Thiên Chúa – điều này dễ hiểu, vì đan sĩ không được đặt bất cứ điều gì trên Công việc của Thiên Chúa ; vì vâng phục – con đường riêng của người đan sĩ, như được nêu ngay trong lời mở đầu : quay trở lại với Đấng mà ta đã rời xa do sự hèn nhát của bất tuân ; và cuối cùng là nhiệt thành trong việc đón nhận những sỉ nhục – điều này ngày nay nghe có vẻ lạ tai : ai lại muốn chịu sỉ nhục ? Ta có thể diễn đạt cách gần gũi hơn với tinh thần hiện đại rằng : hãy xét xem người mới có ý thức rằng nơi họ có những giới hạn và khuyết điểm không, và liệu họ có sẵn sàng nhận ra chúng một cách vui tươi để có thể vượt qua. Vì thế, buổi sữa lỗi huynh đệ sáng nay là một bài luyện tập tuyệt vời – các anh em trẻ quả thực may mắn,( Ở đây cha viện phụ muốn ám chỉ giờ sữa lỗi huynh đệ sáng nay dành cho anh em trẻ thôi) tôi e rằng họ có thể khiến người khác ganh tị !
Dù chương 58 là trung tâm, ba chương tiếp theo cũng chứa đựng những chỉ dẫn quý báu.
Chương 59, đầy bất ngờ, nói về những đứa trẻ được người khác chọn để trở thành đan sĩ, buộc ta phải đặt lại câu hỏi về tự do. Rõ ràng, quan niệm về tự do thời Thánh Biển Đức rất khác với ngày nay. Nhưng cũng rõ ràng rằng, quan niệm hiện đại về tự do không hẳn là chính xác nhất.
Người ta có chọn làm đan sĩ không ? Dĩ nhiên có quyết định, nhưng liệu đó có phải là một sự chọn lựa đúng nghĩa ? Với tôi, tôi không chọn làm đan sĩ, cũng như không chọn làm viện phụ. Nhưng trong cả hai trường hợp, tôi đã đồng ý được chọn. Tất nhiên có sự quyết định tự do, nhưng không phải là một chọn lựa tuyệt đối chỉ dựa vào ý chí riêng. Khi tôi trở thành tu sĩ, tôi không chọn, tôi đồng thuận với việc được chọn.
Việc tiếp nhận các linh mục mang đến một điểm quan trọng khác : người ta đến tu viện như chính họ, với mức độ trưởng thành thiêng liêng khác nhau ; nhưng luôn luôn với một ý hướng hoán cải. Vì mọi người đều cần hoán cải – đặc biệt là khi người ta không ý thức rõ điều ấy.
Với các linh mục xin gia nhập, ta có thể giả định rằng họ đã đạt được những yếu tố cơ bản của hành trình hoán cải. Nhưng đối với Thánh Biển Đức, thế là chưa đủ : phải kiểm tra ý hướng của họ và đặt mỗi người vào hoàn cảnh giúp họ tiếp tục hành trình hoán cải theo lối sống đan tu, dù là linh mục. Một lần nữa, đây là bài học quý giá giúp chúng ta đừng dễ dàng nghĩ rằng mình đã hoàn tất việc hoán cải, nhưng hãy giữ lấy sự mềm mại cần thiết để luôn ở trong trạng thái hoán cải không ngừng.
Cuối cùng là chương hôm nay, nói về các đan sĩ đến từ nơi khác. Chương này cũng mang đến những chỉ dẫn hữu ích. Khi một đan sĩ từ một vùng xa xôi xuất hiện – Thánh Biển Đức nói đến một vùng xa xôi, nên có lẽ Việt Nam vẫn còn quá gần để áp dụng cho các anh em của ta – khi một tu sĩ nước ngoài đến đan viện, ta phải tiếp đón họ với thiện chí ban đầu : hãy để họ ở lại bao lâu tùy ý. Nhưng, có một điều kiện – đúng hơn là cái « miễn là » : cho phép họ ở lại bao lâu tùy ý, miễn là họ chấp nhận lối sống của cộng đoàn và không gây rối bằng những đòi hỏi vô ích.
Cũng như trường hợp các linh mục, Thánh Biển Đức muốn kiểm tra xem đan sĩ ấy đến đây với mục đích gì. Có thể ý định của họ bị pha trộn, thậm chí có phần không ngay lành. Ngài từng nói điều tương tự về các khách đến nhà khách ; khi áp dụng cho một tu sĩ, điều đó cho thấy ngài không ảo tưởng gì về bản tính con người, và rằng việc tiếp đón chân thành, dù là ở nhà khách hay trong cộng đoàn, không nên ngây thơ : phải đi qua một cái nhìn sáng suốt về người trước mặt.
Và đôi khi, kết luận có thể là : hãy thẳng thắn mời họ rời đi. Khi nào ? Điều này thật thú vị, bởi với một đan sĩ, đó là trong một trường hợp cụ thể : nếu người ta nhận thấy họ có tính đòi hỏi hoặc đồi bại. Đồi bại thì dễ hiểu, nhưng tại sao tính đòi hỏi cũng bị loại trừ ? Thánh Biển Đức lại rất dứt khoát : phải nhanh chóng đuổi những đan sĩ đòi hỏi ! Một đan sĩ đòi hỏi không những không được nhập vào cộng đoàn, mà còn cần được mời rời đi thẳng thắn, kẻo sự khốn khổ của họ lan sang người khác. Liệu tính đòi hỏi có phải là một sự khốn khổ, lại còn lây lan ? Có, khi đó là sự đòi hỏi sai lạc. Thánh Biển Đức nói ở vài câu trên : « gây rối cộng đoàn bằng những đòi hỏi vô ích ».
Cũng như có hai loại nhiệt thành : một tốt dẫn đến Thiên Chúa, một xấu khiến xa rời Ngài, thì cũng có hai loại đòi hỏi : đòi hỏi lành giúp nâng cao bản thân, và đòi hỏi xấu khiến sa sút. Điều gì phân biệt hai loại này ? Hướng đi của chúng. Đúng hơn, là hướng đi của đan sĩ đòi hỏi. Nếu đòi hỏi phát sinh từ sự hướng về Thiên Chúa, để tiếp tục tìm kiếm Ngài tốt hơn, thì đó là lòng nhiệt thành lành mạnh, mà đan sĩ phải thực hành với lòng yêu mến mãnh liệt, theo chương 72. Nhưng nếu đòi hỏi phát xuất từ sự quy ngã, để thỏa mãn ham muốn hay ý tưởng riêng, thì đó là đòi hỏi vô ích, là nhiệt thành đắng cay dẫn xa Thiên Chúa và đưa đến hư mất. Trong trường hợp này, Thánh Biển Đức rất nghiêm khắc : tốt hơn nên chấm dứt ngay ! Một đan sĩ đưa ra yêu sách cần tự hỏi kỹ : liệu mình đang nhìn về Thiên Chúa hay đang chăm chăm nhìn chính mình ?
Qua một vài chương này, Thánh Biển Đức cho thấy rằng cộng đoàn đan tu không phải là nơi quy tụ những người hoàn hảo, tự hào rằng mình là những kẻ tốt nhất. Nó quy tụ, từ nhiều phương trời, những con người rất khác nhau, nhưng có một điểm chung : tất cả đều muốn sống cho Thiên Chúa, hướng về Thiên Chúa, và sẵn sàng sử dụng những phương thế cụ thể giúp họ phân định điều thiện và điều ác trong tâm hồn mình. Nếu mọi người đều đồng thuận về điểm này, thì cộng đoàn sẽ được làm phong phú bởi sự đa dạng ; nếu không, sẽ có nguy cơ trở nên vô sinh, bởi việc thật sự tìm kiếm Thiên Chúa đòi hỏi biết rõ mình là ai và muốn được biến đổi.
Chương 35 – Các việc lao dịch
Những công việc vặt : ai cũng e ngại chúng ! Chúng lặp đi lặp lại, chồng chất lên nhau và dường như kéo dài vô tận, khiến ta mệt mỏi và chán nản. Nào là rửa bát dính đầy dầu mỡ, giặt giũ không ngừng, dọn dẹp nhà cửa không bao giờ kết thúc, hay nấu nướng đôi khi chẳng mấy dễ chịu – mỗi việc đều trở thành một gánh nặng. Và dù đã cố gắng bao nhiêu, kết quả vẫn thường khiến ta thất vọng : thậm chí chẳng nhận được một nụ cười cảm ơn ! Miễn cưỡng lắm, ta cũng phải làm những công việc này, nhưng chẳng phải thời gian dành cho chúng bị lãng phí, đáng lẽ nên dùng vào những hoạt động ý nghĩa hơn sao ? Với tôi, rõ ràng là tôi không vào đan viện để rửa bát, mà là để chiêm niệm !
Đó có phải là quan điểm của thánh Biển Đức không ? Hôm nay, ngài không nói về việc rửa bát, mà nói về những người phụ trách bếp núc, bao gồm cả những ai phục vụ bàn ăn.
Thánh Biển Đức hiểu rõ rằng công việc bếp núc là một nhiệm vụ khó khăn và đôi khi nặng nhọc, rằng việc phục vụ bàn ăn có một khía cạnh khiến ai cũng cảm thấy thiệt thòi. Chính vì thế, ngài đưa ra những quy định rất tinh tế về vấn đề này.
Như trong mọi lĩnh vực khác, điều thánh Biển Đức quan tâm trước tiên không phải là khía cạnh vật chất của công việc, mà là con người : những người đảm nhận nhiệm vụ và những người hưởng lợi từ công việc ấy, và do đó, mối quan hệ giữa họ với nhau.
Vậy mối quan hệ này được định nghĩa như thế nào ? Ngay từ câu đầu tiên của chương này, thánh Biển Đức đã nói rõ điều đó : “các anh em”. Việc ngài sử dụng từ anh em thay vì đan sĩ thật đáng chú ý. Trong phòng ăn, cả những người ngồi lẫn những người phục vụ đều là anh em. Và họ làm gì ? “Các anh em sẽ phục vụ lẫn nhau”. Câu đầu tiên này thay đổi hoàn toàn cách nhìn nhận : đây không phải là những công việc vặt bị áp đặt như mệnh lệnh của một viên hạ sĩ, mà là một sự phục vụ – và hơn thế nữa, là một sự phục vụ lẫn nhau giữa những anh em.
“Các anh em sẽ phục vụ lẫn nhau.” Trong tiếng Latinh : invicem – lẫn nhau. Họ phục vụ nhau. Mỗi người đều có lúc làm người phục vụ và có lúc được phục vụ. Từ nhỏ bé invicem này xuất hiện nhiều lần trong Tu Luật thánh Biển Đức : để nói về sự vâng phục lẫn nhau, sự tôn kính lẫn nhau, và ở đây là sự phục vụ lẫn nhau.
Không thể không nhận ra rằng tinh thần phục vụ lẫn nhau của thánh Biển Đức chính là sự tiếp nối của tình huynh đệ trong những cộng đoàn Kitô hữu sơ khai. Ở đây, không còn giai cấp xã hội, không còn người tự do hay nô lệ, không còn sự phân biệt giữa người này và người khác.
Trong lịch sử đan tu, có những thời kỳ khi các đan sĩ xuất thân từ giới quý tộc vào đan viện cùng với những gia nhân của họ – những người này được gia đình cấp dưỡng và đảm nhận hết mọi việc phục vụ, để chủ nhân của họ không phải đụng tay vào bất cứ việc gì. Nhưng thánh Biển Đức không cho phép điều đó. Tất cả các đan sĩ đều là anh em, và do đó, tất cả đều phải tham gia vào công việc chung. Đan viện phải khác với xã hội bên ngoài, dù là xã hội thời thánh Biển Đức, thời Trung Cổ hay xã hội ngày nay, nơi có người phục vụ và người được phục vụ. Không ai được miễn trừ, ngoại trừ trường hợp bệnh tật hoặc có một nhiệm vụ quan trọng đặc biệt cho cộng đoàn.
“Không ai được miễn trừ khỏi công việc phục vụ này.” Từ dispensé (được miễn trừ) trong tiếng Latinh là excusetur, có nghĩa là đưa ra lý do để không phải làm một việc gì đó. Nhưng giữa lý do chính đáng và một cái cớ, đôi khi rất khó phân biệt ! Trong Kinh Thánh Vulgata, từ này có sắc thái tiêu cực, như khi những khách mời đến tiệc cưới biện hộ để từ chối lời mời. Có bao nhiêu người, là có bấy nhiêu lý do để xin miễn trừ ! Nhưng thánh Biển Đức chỉ công nhận hai lý do chính đáng : bệnh tật và một nhiệm vụ quan trọng cho cộng đoàn. Hơn nữa, ngài cũng phân biệt rõ giữa bệnh tật và sự yếu đuối, bởi những người yếu sẽ được hỗ trợ để có thể thực hiện công việc.
Điều này cho thấy thánh Biển Đức rất quan tâm đến con người : không chỉ để tránh tình trạng có người lười biếng, mà còn để đảm bảo rằng công việc phục vụ được phân bổ hợp lý, sao cho nhẹ nhàng nhất có thể đối với những ai đảm nhận nó. Ngài nghĩ đến tất cả : sự mệt mỏi, thời gian phục vụ, sự khác biệt giữa ngày thường và Chúa Nhật. Những chi tiết ấy chứng tỏ rằng việc tạo điều kiện thuận lợi nhất cho mỗi người trong nhiệm vụ của họ là điều quan trọng. Sự dấn thân và sự quân bình trong đời sống không đối lập nhau, mà còn củng cố lẫn nhau.
Từ phục vụ chính là từ khóa của chương này. Trong Luật dòng thánh Biển Đức, nó không chỉ giới hạn trong việc phục vụ bàn ăn hay nhà bếp, mà trước hết là phục vụ Thiên Chúa : phụng vụ là sự phục vụ Thiên Chúa, đan viện là trường học của việc phục vụ Chúa, và khi tuyên khấn, đan sĩ hứa sẽ dâng mình vào “sự phục vụ thánh”. Chính vì là người phục vụ Chúa, đan sĩ cũng đồng thời là người phục vụ anh em mình. Như thánh Phaolô nói trong thư thứ nhất gửi tín hữu Côrintô : “Tôi đã trở nên đầy tớ của mọi người.”
Việc phục vụ anh em được thánh Gioan Cassianô miêu tả với một chút hài hước trong Các Định Chế Đan Viện :
“Ở vùng Lưỡng Hà, Palestine và Cappadocia, nói chung là khắp phương Đông, các anh em thay phiên nhau mỗi tuần để thực hiện những công việc này. Và họ tận tâm với nhiệm vụ ấy đến mức khó có một người nô lệ nào phục vụ chủ nhân khắc nghiệt nhất với lòng nhiệt thành như thế ! Không chỉ làm tròn bổn phận của mình, họ còn sẵn sàng thức dậy giữa đêm để lặng lẽ giúp đỡ những người đang trực, vui mừng khi có thể đỡ đần và hoàn thành công việc thay cho người khác.”
Thật vậy, tôi đã sống ở Sept-Fons suốt 35 năm, nhưng chưa bao giờ thấy một đan sĩ nào thức dậy nửa đêm để lén dọn dẹp phòng ăn thay cho anh em mình !
Lòng nhiệt thành này, đôi khi bị xem là một thứ chủ nghĩa nỗ lực (volontarisme), khiến thánh Gioan Cassianô và thánh Biển Đức bị gán cho nhãn hiệu “Bán Pelagio” (semi-pélagianisme). Nhưng phần cuối của chương này cho thấy sự cáo buộc đó là sai lầm. Dù nỗ lực bao nhiêu, tất cả đều phải khởi đi và kết thúc trong lời cầu nguyện : người phụ trách bếp núc được cầu nguyện cho trước khi họ bắt đầu công việc và cả khi họ kết thúc nhiệm vụ. Với thánh Biển Đức, mọi sự khởi đầu trong cầu nguyện – ngay cả những công việc bình thường nhất – và kết thúc trong cầu nguyện.
Một câu hỏi dành cho chúng ta :
Chúng ta hoàn thành công việc được giao với thái độ nào ? Chúng ta làm chỉ để tránh phiền phức và mong chóng xong xuôi, hay chúng ta thực sự đặt công việc ấy trong hành trình tìm kiếm Thiên Chúa ?
Với một đan sĩ, phục vụ anh em không phải là gánh nặng, mà là một cách cụ thể để đáp lại tiếng gọi của Thiên Chúa.
“Dù làm việc gì, hãy làm hết lòng… vì anh em đang phục vụ Chúa Kitô.”
Chương 35 – Thiêng liêng và vật chất
Chúng ta là đan sĩ, là những con người thiêng liêng!
Thật vậy, chẳng phải chúng ta đã khấn sống đời thiêng liêng đó sao? Điều này có nghĩa là chúng ta phải hoàn toàn tách khỏi những thực tại vật chất, chỉ còn sống trong đời sống thiêng liêng. Trong các văn bản của các thánh phụ Hy Lạp, hình ảnh ca đoàn thiên thần thường được dùng để diễn tả đời sống đan tu. Chúng ta phải sống như các thiên thần. Vật chất chỉ có thể làm chúng ta nặng nề. Hãy thoát ra khỏi nó và sống như những con người thiêng liêng.
Vấn đề là: điều này lại hoàn toàn không – nhưng thật sự là hoàn toàn không – phù hợp với điều thánh Biển Đức dạy chúng ta trong chương mà ta vừa nghe về những tu sĩ phục vụ bếp. Cũng như trong nhiều điểm khác, ở đây thánh Biển Đức hoàn toàn đứng trong đường lối của các thánh phụ sa mạc.
Hẳn các bạn còn nhớ lời khuyên của abba Sylvain. Một tu sĩ đến thăm và thấy các huynh đệ đang lao động, liền nói với vị lão phụ: « Đừng làm việc vì của ăn hay hư nát; vì Maria đã chọn phần tốt hơn ». Abba liền bảo môn sinh: « Zacharie, đưa cho vị khách một cuốn sách và dẫn anh ấy vào phòng riêng ». Khi giờ thứ chín đến gần, vị khách chăm chú nhìn ra cửa, chờ có ai đến gọi đi ăn. Nhưng chẳng ai đến, nên cuối cùng anh đứng dậy, tìm đến vị lão phụ và hỏi: « Thưa abba, hôm nay các huynh đệ không ăn sao? ». Abba đáp: « Có chứ. Nhưng con là người thiêng liêng, con đâu cần thức ăn xác thịt. Còn chúng ta là những người xác phàm, nên chúng ta phải ăn, và vì thế, chúng ta lao động. Con đã chọn phần tốt hơn: cả ngày đọc sách và không cần ăn gì xác thịt ». Nghe vậy, vị khách phủ phục và nói: « Xin abba tha lỗi cho con ».
Đó chính là một giáo huấn thực tế mà thánh Biển Đức hoàn toàn đón nhận như của mình.
Giờ đây, ta hãy đặt chương 35 vừa đọc vào bối cảnh của nó. Nó thuộc một khối chương, từ chương 31 đến chương 41, tạo thành phần đầu tiên của một mục quan trọng trong Luật dòng, nơi thánh Biển Đức bàn về điều ta có thể gọi là đời sống hằng ngày của người đan sĩ. Ngài nói đến tổ chức vật chất của cộng đoàn Biển Đức, nhưng mối bận tâm chính của vị luật sĩ – như lộ rõ qua các chương ấy – không phải là để thiết lập một “bộ máy vận hành hiệu quả”, mà là để khắc ghi vào tâm trí các đan sĩ tầm quan trọng cốt yếu của thực tại vật chất, hay đúng hơn, là mối liên hệ thiết yếu giữa thực tại vật chất và thực tại thiêng liêng.
Chương 31, mở đầu cho phần này bằng việc mô tả vai trò của quản lý, đã nói rất rõ điều ấy: những phẩm chất của người quản lý không trước hết là sự hiệu quả trong điều hành – dù điều đó dĩ nhiên vẫn rất tốt – mà là khả năng lắng nghe và thấu hiểu nhu cầu của người khác; là khả năng, qua việc quan tâm đến những thực tại vật chất, xây dựng và duy trì những mối tương quan huynh đệ chất lượng.
Cũng với tinh thần ấy, thánh Biển Đức sau đó nói đến các dụng cụ và đồ dùng của đan viện – những thứ, với vị viện phụ, là cơ hội để tạo nên mối dây liên kết giữa người nhận và người trao.
Cũng vậy khi ngài nói đến vấn đề sở hữu – đúng hơn là tật xấu đáng ghét của lòng chiếm hữu – trong hai chương kế tiếp. Thánh Biển Đức biết rất rõ rằng chúng ta không thể sống mà không dùng đến những thực tại vật chất. Nhưng ngài đặc biệt chú ý đến thái độ nội tâm của người sử dụng chúng. Vấn đề không nằm ở bản thân thực tại vật chất – vốn là điều con người có thể cần một cách chính đáng – mà nằm ở thái độ nội tâm đối với nó. Vì thế, ngài vừa dạy rằng mọi người phải được cung cấp điều cần thiết một cách công bằng, lại vừa nhấn mạnh rằng phải tận diệt đến tận gốc rễ tật xấu đáng ghét của lòng chiếm hữu trong đan viện.
Và giờ đây, thánh Biển Đức bước vào một chủ đề nhạy cảm: việc nấu nướng và ăn uống, không ngại đi vào những chi tiết rất cụ thể.
Biết rằng đây là những vấn đề nhạy cảm đặc biệt, thánh Biển Đức không ngần ngại đi sâu vào từng chi tiết. Mục tiêu không phải là kiểm soát mọi thứ qua một hệ thống luật lệ rắc rối, mà là giúp chúng ta sống những thực tại không thể tránh khỏi của đời sống con người – ăn và uống – sao cho, nhờ đó, chúng ta được gần Chúa hơn, sao cho chúng mang lại lợi ích thiêng liêng. Như thường lệ, thánh Biển Đức tìm kiếm sự hiệp nhất sâu xa nơi con người, vốn vừa đắm mình trong những điều cụ thể, vừa khao khát những thực tại cao siêu.
Vì thế, chương nói về nhà bếp không bàn trước hết về món ăn cần chuẩn bị, mà – dùng chính lời của thánh Biển Đức – bàn đến “phục vụ lẫn nhau”, “phân phát”, “sự yếu đuối”, “chu toàn bổn phận không buồn sầu”, “công phúc”, “bác ái”. Vấn đề không chỉ là bảo đảm có đủ cái ăn, mà là sống những thực tại ấy trong tư cách một đan sĩ; khởi đi từ thực tại con người để tiến về gần Thiên Chúa. Chúng ta phục vụ Thiên Chúa không chỉ trong nhà nguyện, mà cả trong nhà ăn – nơi cách chúng ta ăn uống – và trong nhà bếp – nơi cách chúng ta nấu nướng. Cả con người và cả cuộc sống của chúng ta đều được thánh hiến cho Thiên Chúa.
Luật dòng nhấn mạnh đến sự hiệp nhất sâu xa nơi con người chính là vì Luật biết rõ: đó là điều không sẵn có. Toàn bộ lịch sử linh đạo cho thấy: con người thường lắc lư giữa hai thái cực – một mặt là đời sống thiêng liêng phi thực tế, mặt khác là sa lầy trong vật chất đến mức ngộp thở.
Tùy từng thời đại, đã có những cộng đoàn “có vẻ thiêng liêng” được khai sinh, lớn mạnh rồi lụi tàn, khi dần đánh mất sự gắn bó với thực tế và rơi vào những lạm dụng nguy hiểm.
Người ta cũng từng chứng kiến những đan viện tự giam mình trong thành công vật chất – đôi khi rất ngoạn mục – nhưng cuối cùng lại bóp nghẹt chính mục đích thiêng liêng mà thành công ấy phải phục vụ.
Điều đúng với các cộng đoàn, cũng đúng – theo một cách tương tự – với mỗi người chúng ta.
Vậy chúng ta đang làm gì để bảo đảm sự hiệp nhất sâu xa nơi chính mình, như thánh Biển Đức dạy?
Chúng ta có tìm được sự quân bình đúng đắn giữa đời sống thiêng liêng và đời sống cụ thể không?
Hay nói đúng hơn: chúng ta có khám phá ra rằng Thiên Chúa không được tìm thấy bên ngoài đời sống thường ngày – kể cả trong những khía cạnh bình thường nhất – không?
Chúng ta có muốn điều ấy không? Hay chúng ta tưởng mình khôn hơn cả Luật dòng, và chấp nhận mạo hiểm để rồi rơi vào hoặc một thứ đạo đức thiêng liêng giả tạo, hoặc một thứ vật chất trống rỗng?
Qua những huấn lệnh tưởng chừng rất thường nhật, thánh Biển Đức chạm đến tận căn cốt của đời sống con người và muốn giúp chúng ta hiểu, khám phá nơi đó một sự quân bình đích thực – điều sẽ nâng đỡ bước đường chúng ta tiến về với Thiên Chúa.
Còn lại là ở nơi chúng ta chọn lựa!
Chương 29 – Tính thực tế và sự linh hoạt
Cũng như đối với loạt chương về phụng vụ, ta cần hiểu các chương về các hình phạt không chỉ trong chi tiết của từng chương—nơi chứa đựng những viên ngọc quý về tính khí con người và cách cư xử phù hợp với từng người—mà còn ở tầm nhìn toàn cục, để khám phá những định hướng nền tảng của thánh Biển Đức trong vấn đề kỷ luật của đan viện.
Từ khoảng mười hai chương mà chúng ta đang đọc—xin lưu ý, số lượng này đúng bằng với loạt chương phụng vụ—nổi bật lên hai nguyên tắc nền tảng trong đường lối sư phạm của thánh Biển Đức: ngài quy định một kỷ luật rất cụ thể, chi tiết, và đồng thời lại đầy uyển chuyển.
Kỷ luật và sự uyển chuyển—hai thuật ngữ tưởng chừng như đối lập: kỷ luật gợi lên một cấu trúc cố định và nghiêm ngặt, được áp đặt một cách cứng rắn; trong khi sự uyển chuyển lại mang tính linh hoạt, tùy nghi, không cứng nhắc, dễ thích nghi.
Ấy vậy mà cả hai thực tại này đều hiện diện xuyên suốt bộ luật đền tội. Và chương ngắn ngày hôm nay là một minh họa sống động. Xin trích lại đoạn văn:
« Một sư huynh, vì lỗi của mình, đã rời khỏi đan viện mà nay muốn quay trở lại—điều đó không phải là không thể, thánh Biển Đức tiếp cận tình huống này một cách linh hoạt, nhưng không phải muốn sao cũng được—trước hết, huynh ấy phải cam kết sửa đổi tận căn thói xấu đã khiến huynh bỏ đi—đây là phần kỷ luật, rất cụ thể, thậm chí đến từng chi tiết—sau đó, huynh ấy sẽ được đón nhận vào hàng cuối cùng để thử thách lòng khiêm nhường; nếu huynh lại rời bỏ một lần nữa—vậy là chấm dứt? Không—vẫn có thể được nhận lại đến ba lần—sự uyển chuyển thật đáng ngạc nhiên, nhưng—sau đó—kỷ luật trở nên nghiêm khắc—huynh ấy sẽ biết rằng từ nay mọi con đường trở lại đều bị khép lại ». Ta thấy một sự dao động liên tục giữa kỷ luật và sự uyển chuyển.
Đó chính là điều thúc đẩy chúng ta suy tư: đến mức độ nào chúng ta bước vào hay không bước vào nhãn quan này của thánh Biển Đức? Điều cốt yếu là không được làm lệch cán cân bằng cách thiên vị một trong hai yếu tố, tùy theo khuynh hướng dễ dãi hay cứng nhắc của bản thân. Điều thánh Biển Đức muốn dạy trong bộ luật đền tội chính là: cần cả hai thái độ, vì chúng bổ túc cho nhau, và nếu không nắm giữ cả kỷ luật lẫn sự uyển chuyển, ta không chỉ làm lệch lạc bộ luật đền tội, mà còn làm tổn thương sâu sắc đời sống mà ta đang khao khát sống.
Nhưng làm thế nào để thực hiện điều ấy? Hai thực tại này dường như mâu thuẫn, vậy làm sao giữ được cả hai cùng lúc? Muốn kết hợp, cần phải nối kết. Phải tìm ra một thực tại thứ ba có thể làm cầu nối, liên kết hai thái cực ấy lại và giúp ta gắn kết chúng. Thực tại trung gian ấy là gì? Chính là một phẩm chất mà thánh Biển Đức sở hữu một cách nổi bật: tính hiện thực.
Thánh Biển Đức là một con người thực tế: ngài không ảo tưởng, không mộng tưởng về khả năng của mỗi người, cũng không ảo tưởng về hiệu quả của những lời kêu gọi chung chung nhằm thúc đẩy con người làm điều thiện.
Ngài không mắc sai lầm như Socrate, người nghĩ rằng chỉ cần biết điều thiện là đủ để thực hành nó. Theo Socrate, nếu một người biết điều gì là tốt, người ấy tự nhiên sẽ hành động phù hợp với điều đó; cái ác chỉ là kết quả của sự thiếu hiểu biết, chứ không phải là một chọn lựa có ý thức. Có lẽ Socrate đã suy nghĩ dựa trên kinh nghiệm cá nhân, bởi ông có lẽ là người có tính cách rất quân bình. Nhưng kinh nghiệm của chúng ta phức tạp hơn: ta mang trong mình những mất cân bằng sâu xa vì tội lỗi, và nếu không tỉnh thức, điều thiện sẽ không bao giờ chiếm ưu thế.
Chúng ta cần được giáo dục, không chỉ để sống trong xã hội mà còn đơn giản để sống với chính mình. Và giáo dục ấy—như trong mọi nền giáo dục thực thụ, chưa từng có phương pháp nào tốt hơn—phải bắt đầu từ những quy tắc bên ngoài, dần dần được nội tâm hóa.
Vậy, bộ luật về việc đền tội của thánh Biển Đức không nhằm gì khác hơn là cho phép một sự tái quân bình mang tính khách quan. Ngài không chỉ xét đến những giới hạn, những ước muốn hay yếu đuối của mỗi người, nhưng còn thiết lập một khuôn khổ cộng đoàn để bao bọc những yếu đuối ấy, điều hướng các ước muốn, và đặt một sự chừng mực trong mọi sự.
Nếu không hiểu điều đó, bộ luật đền tội sẽ chỉ còn là một gánh nặng bên ngoài mà người ta sớm muộn gì cũng sẽ tìm cách trút bỏ, vì nó cản trở ta làm điều mình muốn. Nhưng suy nghĩ như vậy là nhìn sai bản chất vấn đề: điều ta cần không phải là giải thoát khỏi những quy tắc mà Luật đặt ra—không ai bắt buộc ta phải vào đan viện hay ở lại—mà là gắn bó tự nguyện với các quy định ấy, chính vì chúng không phải là những ép buộc, nhưng là những trợ lực, dù bên ngoài nhưng không thể thiếu, để giúp ta được giải thoát khỏi những xiềng xích nội tâm đang trói buộc mình.
Chính vì thực tế, mà đường lối sư phạm của thánh Biển Đức đặt nền tảng trên một kỷ luật không thể thiếu. Nhưng cũng chính vì thực tế ấy mà ngài lại hành xử với sự uyển chuyển đến vậy.
Thánh Biển Đức biết rằng con người khó lòng tiến bước. Ngay cả khi hiểu được điều gì là ích lợi đích thực của mình, dù đã thấy rõ ràng, người ta vẫn không luôn muốn theo đuổi và thực hiện nó, bởi điều ấy đòi họ phải ra khỏi chính mình và bước vào chương trình của Đấng Khác. Ở đây, điều đang được đặt ra chính là một sự hoán cải. Và dù đôi khi có được những ân sủng rực sáng để khởi đầu, hoán cải vẫn luôn, như mọi thay đổi nhân sinh khác, cần có thời gian.
Thánh Biển Đức chấp nhận rằng cần có thời gian và cả những khởi đầu lại để đạt được kết quả. Bộ luật đền tội không nhắm đến một thành công tức thì. Nó không giống như những trường học quảng cáo trên Internet với khẩu hiệu: « Đảm bảo 100% thành công! » Không, thánh Biển Đức là người thực tế, ngài biết cần phải lặp lại nhiều lần, và chỉ qua sự kiên trì mà những thái độ đúng đắn mới dần được hình thành trong ta, từ từ sửa chữa những lệch lạc sẵn có.
Để đạt được điều đó, thánh Biển Đức trước hết tìm cách định hướng rõ ràng cho đời sống của đan sĩ, và vì vậy Luật của ngài bao trùm mọi khía cạnh đời sống. Khi đã có định hướng ấy, ngài không ngần ngại lặp lại điều cần phải lặp lại, và bắt đầu lại bao nhiêu lần cần thiết.
Điều này có làm ta nản lòng không? Trái lại.
Từ khóa nổi bật sau cùng của bộ luật đền tội chính là niềm hy vọng: không có gì là mất đi mãi mãi, mọi sự đều có thể được khởi sự lại, miễn là lòng con người mở ra đón nhận ơn Chúa—ơn thánh làm cho ta sáng suốt và có khả năng hành động trong sự thật.
Chủ nghĩa hiện thực nơi thánh Biển Đức, điều làm nên sự kết hợp tinh tế giữa kỷ luật và uyển chuyển, chính là đặt nền trên thực tại—nhưng không chỉ là thực tại của con người, mà trước hết là thực tại của Thiên Chúa, Đấng muốn lôi kéo ta về với Ngài và không bao giờ bỏ rơi ta.
Chương 29 – Quy tắc sám hối và phương pháp
Vạ tuyệt thông, hình phạt thể xác, những cuộc chay tịnh kéo dài, hình phạt bằng roi, những trận đòn roi nghiêm khắc… thật sự, không thể chấp nhận được, Luật Thánh Biển Đức thuộc về một thời đại khác. Nó còn có ích gì trong thời đại ngày nay ? Và đặc biệt là bộ quy tắc sám hối nổi tiếng mà chúng ta đang đọc trong những ngày này ?
Ngay chính tên gọi của nó cũng đủ để bị loại bỏ : bộ quy tắc sám hối, như thể chúng ta đang ở trong một nhà tù ! Hãy vứt bỏ tất cả những thứ này đi ! Và cả những tàn dư nhỏ nhất của những thực hành không tôn trọng phẩm giá vẻ vang của con người hiện đại, người cuối cùng đã trở thành thước đo của mọi sự.
Đúng vậy, có những thực hành vốn bình thường vào thời Thánh Biển Đức nhưng ngày nay sẽ là điều tai tiếng. Có vị viện phụ nào dám áp đặt những hình phạt roi nghiêm khắc lên các đan sĩ không ? Hmmm… nếu suy nghĩ kỹ…
Văn hóa phát triển, tư tưởng thay đổi. Chúng tinh tế hơn… có lẽ thế… nhưng chúng ta ít nhất cũng cần có một cái nhìn tổng quát. Và đáng để đặt ra một câu hỏi sâu xa hơn về bộ quy tắc sám hối này : Có phải chỉ đơn thuần là một sự lỗi thời, một tập hợp những thực hành đã quá cũ kỹ mà ngày nay không còn cần đến ? Hay đằng sau sự bác bỏ của chúng ta, còn ẩn chứa một vấn đề sâu xa hơn : cách chúng ta đối diện với những thiếu sót, sai lầm của mình, và rộng hơn là cách chúng ta xử lý điều mà ta thường gọi là cảm giác tội lỗi của mình ?
Nếu chúng ta muốn cất bộ quy tắc sám hối vào ngăn tủ, nếu chúng ta cảm thấy không thoải mái với những thực hành mà nó đề xuất, thì có lẽ không chỉ vì một số trong đó đã lỗi thời. Mà còn bởi vì nó đánh động chúng ta về một điều mà ta không muốn đối diện : bên trong chúng ta có những lệch lạc mà ta không hề muốn nhìn nhận hay sửa chữa.
Thế nhưng, chính bộ quy tắc này lại đi ngược lại thái độ đó. Mục tiêu của Thánh Biển Đức trước hết là giúp chúng ta ý thức về những hành vi không phù hợp—dù đôi khi ngài sử dụng những phương cách gây tranh luận. Nhưng xa hơn nữa, ngài muốn giúp chúng ta hiểu tại sao chúng ta lại có những thái độ đó. Mục tiêu không phải là trừng phạt, mà là chữa lành.
Bằng chứng là những lời cuối cùng trong bộ quy tắc sám hối mà chúng ta sẽ nghe vào ngày mai : «hầu cho họ được sửa đổi».
Mối bận tâm chính của Thánh Biển Đức khi kết thúc bộ quy tắc này chính là sửa chữa, hay nói đúng hơn, chữa lành những thiếu sót, mà ngài coi như những căn bệnh mà vị viện phụ phải điều trị như một thầy thuốc giỏi. Và Thánh Biển Đức hiểu rằng một thầy thuốc không chỉ chữa triệu chứng, mà phải tìm ra nguyên nhân của bệnh và đưa nó ra ánh sáng.
Nhưng đây không phải là một nhiệm vụ dễ dàng. Nhận ra những sai lầm trong hành vi của mình chưa bao giờ là điều đơn giản, vì nó đặt chúng ta vào một vị thế yếu đuối, nhất là trước chính bản thân mình—một điều mà chúng ta khó chấp nhận và xử lý.
Tuy nhiên, nếu ta giữ hình ảnh của căn bệnh, thì chừng nào nó chưa được chẩn đoán rõ ràng, thì chừng đó không thể có phương pháp điều trị hiệu quả.
Bước chẩn đoán này tuy khó khăn, nhưng nó khả thi. Bởi vì trong mỗi người chúng ta đều có khả năng tự nhận biết bản thân, nhìn nhận mình một cách sáng suốt. Chính khả năng này cho phép ta chấp nhận giới hạn của mình và vượt lên trên chúng.
Dĩ nhiên, kết quả không được đảm bảo ngay lập tức. Khả năng này không phải lúc nào cũng phát huy tác dụng ngay từ lần đầu tiên ; đôi khi ta phải thử lại nhiều lần mới có thể đạt được kết quả. Nhưng điều quan trọng là khả năng đó hiện diện trong chúng ta.
Thánh Biển Đức không hề nghi ngờ về điều đó. Bằng chứng là ngài sẵn sàng tiếp nhận một đan sĩ đã rời khỏi đan viện vì lỗi lầm của mình đến ba lần. Điều này có nghĩa là Thánh Biển Đức tin tưởng vào khả năng của con người trong việc ý thức về sai lầm của mình, hiểu được ý nghĩa của chúng, và cuối cùng là tiến bộ.
Tuy nhiên, ngài không ngây thơ : để vượt qua những thiếu sót của mình, cần có một phương pháp.
Do đó, người đan sĩ phải hứa hẹn—một cam kết thay đổi, và điều này cần được thốt ra thành lời.
- Người đan sĩ phải hứa hẹn trước tiên – Thứ tự thời gian phải phù hợp với trật tự hiện sinh : nếu không có quyết tâm cá nhân, thì sẽ không có tiến bộ.
- Người đan sĩ phải hứa hẹn một cách trọn vẹn – Không chỉ là một lời nói nửa vời, mà là một sự dấn thân toàn diện.
- Người đan sĩ phải hứa hẹn một sự sửa đổi toàn diện – Điều này đòi hỏi phải ý thức được lỗi lầm của mình.
- Người đan sĩ phải hứa hẹn sửa đổi tận gốc rễ của thói xấu – Không chỉ là sửa chữa hành động sai trái, mà còn phải loại bỏ nguyên nhân sâu xa đã gây ra nó.
Như vậy, bộ quy tắc sám hối không đơn thuần là một hệ thống kỷ luật chung, mà còn là một phương pháp giáo dục thực sự, chạm đến tận cội rễ của đời sống con người.
Những lỗi lầm mà nó chỉ ra không chỉ là những hành động sai trái, mà là dấu hiệu của một căn bệnh sâu xa hơn—đó là sự quy ngã, sự thu mình lại mà ngăn cản chúng ta hướng về Thiên Chúa.
Chính tấm lòng yếu đuối của chúng ta là nguồn gốc của những lỗi lầm này, và chính tấm lòng ấy cần được chữa lành.
Trái tim con người được tạo dựng để gặp gỡ Thiên Chúa. Đó là viễn cảnh mà ta phải đặt đời sống và hành động của mình vào. Quy tắc Thánh Biển Đức giúp chúng ta không chỉ dừng lại ở những lời tuyên bố tốt đẹp, mà còn biết cụ thể hóa cam kết không đặt điều gì lên trên Đức Kitô.
Điều này soi sáng mạnh mẽ cho mùa Chay mà chúng ta sắp bước vào.
Hoán cải, trở về với Thiên Chúa : Thánh Biển Đức cho chúng ta những phương thế rất cụ thể và thích hợp để thực hiện điều đó.
Chương 6 – Thinh lặng, môi trường thuận lợi
Chương quan trọng mà chúng ta vừa đọc không phải là một văn kiện mang tính kỷ luật nhằm điều chỉnh việc sử dụng lời nói, nhưng đúng hơn là một suy tư nền tảng về điều mà ngày nay người ta có thể gọi là việc tạo dựng một bầu khí, một môi trường thuận lợi cho đời sống cầu nguyện mà Thiên Chúa mời gọi chúng ta.
Đời sống Biển Đức là một đời sống cộng đoàn khá khắng khít ; và truyền thống Xitô, thậm chí là Trappe, chỉ đơn giản là đã nghiêm túc hóa những gì đã được trình bày trong Tu Luật. Từ đó nảy sinh một kinh nghiệm mà tất cả chúng ta đều đã từng trải qua : đó là mối tương quan có thể nói là nhân-quả giữa đời sống chung và sự làm chủ lời nói. Càng sống gần gũi nhau, gần như đè lên nhau, thì lời nói lại càng phải được kiểm soát chặt chẽ ; nếu không, sẽ cần phải tìm cách đảm bảo cho mỗi người một không gian không bị xâm lấn bởi lời nói (ít là bởi lời của người khác), một không gian thinh lặng riêng tư. Theo tôi, đó ít là một phần nguyên nhân dẫn đến việc dần dần biến phòng ngủ tập thể và Đại Thư phòng thành các phòng riêng — điều mà lịch sử đan tu cho thấy là một thực tế lập đi lập lại.
Điều đó có nghĩa là trước hết, lối sống của chúng ta, cũng như bầu khí sống còn thiết yếu đi kèm với nó, là trách nhiệm của chính chúng ta. Dĩ nhiên, sẽ cần đến những quy tắc, và như mọi quy tắc, chúng sẽ được tuân giữ phần nào và luôn cần được nhắc lại. Nhưng nếu trong tâm hồn mỗi người không có xác tín nội tâm rằng việc tạo dựng một bầu khí thinh lặng là điều cần thiết để chúng ta có thể cùng nhau sống ơn gọi chiêm niệm, thì sẽ không có gì thật sự khả thi.
Kỷ luật thinh lặng trước hết không phải là một kỷ luật bên ngoài : nó là một kỷ luật nội tâm. Làm sao kiểm soát lời nói nếu trong lòng ta liên tục sôi sục những tư tưởng, suy tư, oán hận, bất mãn ? Thinh lặng bắt đầu từ sâu thẳm tâm hồn mỗi người, và ta cần thành thật mà nói rằng, trước khi là một kỷ luật – cho dù là nội tâm – thì nó trước tiên là một ân sủng, một thực tại được đón nhận nhưng đồng thời cũng cần được chuẩn bị.
Đó chính là chìa khóa giúp ta hiểu điều thánh Biển Đức muốn nói với ta trong chương này ; vì ở đây không phải là bất kỳ thứ thinh lặng nào, cũng không phải là sự kiềm chế lời nói theo kiểu hình thức nào đó, mà là một thái độ nội tâm đặc trưng nơi người môn đệ – nghĩa là người biết rằng mình cần phải học trước khi nói : người môn đệ thì nên thinh lặng và lắng nghe.
Đó cũng chính là thái độ nền tảng của cầu nguyện, bởi vì chúng ta đều mong muốn trở thành môn đệ của Thiên Chúa, Đấng ban cho ta những gì ta cần để bước theo Ngài. Nhưng làm sao đón nhận ân huệ của Thiên Chúa, nếu không dọn sẵn một không gian để chúng có thể lớn lên ? Dĩ nhiên, xét theo thần học đúng đắn, chúng ta biết rằng không chỉ Thiên Chúa ban ân sủng, mà Ngài còn ban cả những phương tiện để đón nhận ân sủng ấy ; nhưng, không bao giờ – không bao giờ – Ngài làm điều đó mà không có chúng ta, hay chống lại chúng ta.
Môi trường mà Luật muốn tạo dựng nhờ việc tiết chế lời nói là một môi trường của các môn đệ, những người ngay từ đầu đã có ý hướng đón nhận, chào đón, lắng nghe điều họ cần. Nếu chúng ta không phải là những môn đệ như thế, thì chúng ta sẽ không thể góp phần vào việc tạo lập và duy trì môi trường đó.
Vì thế, khi chúng ta đặt ra những câu hỏi về cách sống chung với nhau, thì đây sẽ là một trong những câu hỏi đầu tiên cần phải được nêu lên – và cần phải được trả lời. Tận căn, chúng ta có muốn hay không muốn góp phần vào việc tạo dựng bầu khí cần thiết để đáp lại tiếng gọi của Thiên Chúa ?
Truyền thống lịch sử cũng như chính kinh nghiệm của chúng ta cho thấy rằng câu trả lời cho câu hỏi ấy không hề hiển nhiên. Vậy nếu chúng ta đi sâu vào vấn đề này, thì ta cũng cần đủ can đảm để tự hỏi : mình có thật sự muốn dùng những phương thế đó để tìm kiếm Thiên Chúa không ? Có phải ta đang vướng vào một cám dỗ rất phổ biến là nghĩ rằng : nếu phương thế ấy đã từng hữu ích cho người khác hay trong thời khác, thì ta khôn ngoan hơn, đủ để có thể không cần đến nó ? Một sai lầm chết người, giam cầm ta trong ngõ cụt mà ta cần có sự sáng suốt để nhận ra và lòng can đảm để thoát ra.
Mỗi khi chương sáu của Luật được đọc lên, nó phải đánh thức lại lương tri và thiện chí của chúng ta. Không phải để chỉ trích ai hay đấm ngực ăn năn thay cho người khác. Nhưng là để nhìn thẳng và khiêm tốn vào chính cách sống của mình, và tự hỏi : tôi muốn tìm kiếm Thiên Chúa – vậy tôi có muốn dùng những phương thế để đạt được điều ấy không ? Và trong những phương thế ấy, tôi có hiểu được rằng việc tiết chế lời nói là điều hoàn toàn thiết yếu hay không ?
Lời mở đầu
Việc đọc lại Lời mở đầu (của Tu luật) một lần nữa đưa chúng ta trở về với cốt lõi của đời sống đan tu : chúng ta đã nhận được từ Thiên Chúa một lời mời gọi sống trong sự Hiện diện của Ngài theo một hình thức sống cụ thể, và việc chúng ta đáp trả như thế nào sẽ quyết định việc tâm hồn ta có mở ra đón nhận ân sủng mà Ngài trao ban hay không.
Không phải ngẫu nhiên mà một phần của Lời mở đầu được viết dưới dạng đối thoại. Trong cuộc đối thoại giữa Thiên Chúa và con người này, Thiên Chúa luôn là Đấng khởi xướng : chính Ngài ngỏ lời với cõi lòng mỗi người. Đây là một thực tại mà tất cả chúng ta đều phải kinh nghiệm – và xin lưu ý ! – điều này luôn kéo theo những hệ quả rất cụ thể.
Bạn yên tâm, điều đó không có nghĩa là phải nghe thấy tiếng nói hay thấy thị kiến. Điều ấy có thể xảy ra, nhưng trong trường hợp của chúng ta thì có lẽ lại là điều khá nguy hiểm. Khi nói rằng Thiên Chúa ngỏ lời với từng người, chúng ta đang khẳng định một thực tại vững chắc : Thiên Chúa thiết lập mối tương quan cá vị với từng thụ tạo, và Ngài biết cách làm cho họ hiểu được những chỉ dẫn cần thiết để đến được với Ngài.
Thông thường, những chỉ dẫn này có hai dạng : nội tâm và ngoại cảnh. Những chỉ dẫn nội tâm là một ước muốn được đặt vào lòng con người, để chỉ dẫn, thậm chí thúc đẩy họ đi theo một hướng nhất định ; những chỉ dẫn ngoại cảnh là các biến cố, các cuộc gặp gỡ do sự Quan Phòng xếp đặt. Thiên Chúa hướng dẫn chúng ta vừa từ bên trong, vừa qua những điều bên ngoài ; và qua đó, Ngài chỉ cho chúng ta vừa mục tiêu, vừa con đường để đạt tới đó.
Trong trường hợp của chúng ta, mục tiêu là chính Thiên Chúa – « chỉ mình Thiên Chúa » như thánh Rafael Arnaiz nói. Và con đường chính là đời sống đan tu mà thánh Biển Đức mô tả. Đó là lối sống mà Thiên Chúa chỉ ra cho chúng ta, và việc thực hành nó chính là lời đáp – tích cực hay tiêu cực – của ta đối với lời mời gọi của Thiên Chúa.
Vì có lời gọi mời, nhưng còn cần có sự đáp lại. Sống theo tu luật của thánh Biển Đức sẽ là sống một cách cụ thể trong đời sống hằng ngày, theo phong tục tập quán của các đan sĩ. Nhưng sâu xa hơn thế nữa, điều đó sẽ giúp hình thành trong ta một số thái độ nội tâm căn bản để có thể đáp lại lời mời gọi của Thiên Chúa.
Hãy cùng dừng lại ở một vài thái độ mà Lời mở đầu gợi lên.
Nếu, như chúng ta vừa nghe, chúng ta phải là người khôn ngoan xây nhà mình trên đá, thì chẳng phải là vì chúng ta thường có khuynh hướng chạy theo đủ thứ ảo tưởng – những điều lôi cuốn tâm trí hoặc tình cảm ta – và rồi thường lầm tưởng các ảo tưởng ấy là thực tại sao ? Thánh Biển Đức, trái lại, muốn đặt chúng ta trên nền tảng, trên tảng đá của thực tại. Tảng đá này, về căn bản, là chính Đức Kitô – Tảng Đá đích thực –, nhưng cũng là tảng đá của kinh nghiệm sống cụ thể, tảng đá của thực tại đang vây quanh và áp đặt lên chúng ta, không phải để đè bẹp chúng ta, nhưng để kéo chúng ta ra khỏi những giấc mơ, đưa ta trở lại với thực tế, nhắc chúng ta hướng đi đúng đắn, và cuối cùng giải thoát ta khỏi những tưởng tượng vô ích và vô sinh. Việc neo bám rất cụ thể này vào thực tại có thể có vẻ là điều quá « trần thế », nhưng đừng để bị đánh lừa : đó là một thái độ không thể thiếu để đáp lại lời mời gọi của Thiên Chúa. Rất đơn giản : không thể có một câu trả lời thực sự nào nếu không đứng trong thực tại.
Một điểm khác, rất thực tế, đã được nghe hôm qua : nếu ta muốn cư ngụ trong đền thánh của vương quốc ấy (tức là Nước Thiên Chúa), thì hãy biết rằng chỉ có thể đến đó nếu ta chạy tới đó bằng các việc lành. Ở đây, hai thái độ được nhấn mạnh. Trước hết là : phải chạy. Phải chăng Thiên Chúa không thích những con ốc sên ? (trừ phi là trong món bơ tỏi ?). Nếu ta, như các nhà đạo đức thế kỷ trước, muốn dùng hình ảnh loài vật làm minh hoạ, thì dụ ngôn rùa và thỏ có lẽ thích hợp hơn. Đúng là phải chạy, nhưng không phải cách vô tổ chức, mà là chạy sao cho khỏi kiệt sức, chạy không lê bước, không dừng lại giữa đường, không chờ đợi vô ích, không trì hoãn những điều cần thiết. Và thái độ thứ hai : chạy bằng các việc lành. Nói cách khác, rất cụ thể, ta cần thực thi những hành động – và là những hành động tốt. Ta phải cố gắng, trong đời sống hằng ngày, loại bỏ dần những việc gọi là « xấu », tức là những hành vi vô ích, vô sinh, làm ta co rút về chính mình ; đồng thời thực hiện những việc lành, tức là những gì hướng chúng ta về Thiên Chúa và giúp xây dựng một câu trả lời vững bền cho Ngài – một căn nhà được xây để tồn tại.
Không có gì là phi thường ở đây, mà chính là việc đặt Thiên Chúa lên hàng đầu một cách cụ thể và sắp xếp mọi sự khác xoay quanh điều đó. Chính trong đời sống hằng ngày, đôi khi thật tẻ nhạt, mà số phận đời đời của ta được định đoạt.
Chương 47 – Bình an
Đời sống đan tu không phải là một dòng sông êm đềm! Gần đây, đối với chúng ta, nó lại giống một dòng suối chảy xiết, có thác ghềnh, ghềnh đá, đôi lúc là những hố sâu và những xoáy nước — nói chung là rất xa một con sông uy nghi và thanh bình, nơi con thuyền của chúng ta có thể ung dung lướt nhẹ. Nhưng chẳng phải đó chính là cuộc sống, là đời sống con người sao? Luôn xen kẽ giữa mưa giông và nắng đẹp?
Thực ra, cả Tin Mừng lẫn Luật Thánh Biển Đức chưa bao giờ hứa với chúng ta một hành trình dễ dàng, không phải là một con đường nhựa mới trải trên đó ta có thể lướt đi mà không chút cản trở. Không, đừng mơ tưởng như thế.
Thế nhưng, khẩu hiệu của dòng Biển Đức là “pax – bình an” không phải là một điều dối trá. Gương của một số vị thánh đã minh chứng điều đó: một sự bình an sâu xa bên trong hoàn toàn có thể hiện diện giữa những xáo trộn bên ngoài. Hãy xem thánh Lêô Cả – nay đang là thời thịnh hành nói về các Đức Giáo hoàng mang tên Lêô, thì ngài là vị đầu tiên: Đức Giáo hoàng Lêô I. Ta thấy ngài lo lắng cho người Lombards, người Gaulois, người Angles hay người Saxons; ngài chứng kiến sự sụp đổ của Đế quốc Rôma và phải thay thế quyền lực đã suy tàn ấy; chỉ với uy tín cá nhân, ngài đã đối mặt với người man rợ, khiến quân Hung của Attila phải rút lui, nhưng chỉ một thời gian ngắn sau đó, không thể ngăn nổi thành Rôma bị người Vandal dưới quyền Genseric cướp phá – dẫu ngài đã tránh được cuộc tàn sát và phá hủy. Thế nhưng, các bài giảng của ngài vẫn là những bài giáo lý bình an, xoay quanh các mầu nhiệm thiêng liêng, cách riêng là mầu nhiệm Đức Kitô, từ đó ngài rút ra những bài học thực hành cho đời sống Kitô hữu.
Để đạt tới sự khôn ngoan bình thản ấy, sự khôn ngoan vượt trên mọi náo động, chúng ta chỉ cần đi theo thánh Biển Đức – đúng vậy, lại một lần nữa đi theo thánh Biển Đức. Trong Luật Dòng, ngài không dạy chúng ta tránh né khó khăn – ai mà tránh được? – nhưng ngài còn làm hơn thế: ngài dạy chúng ta cách đối diện với khó khăn, đúng hơn, cách sử dụng chúng như những chiếc ván nhún để tiến về với Thiên Chúa. Và ngài trao cho chúng ta những phương thế, rất cụ thể, mà chúng ta phải không ngừng trở về với chúng.
Một trong những phương thế ấy hôm nay mang ý nghĩa đặc biệt quan trọng cho cộng đoàn chúng ta, để đời sống chung của chúng ta không thêm vào sự bối rối và xáo trộn của lòng người, nhưng trái lại, làm dịu nó và hướng nó về Thiên Chúa. Phương thế ấy chính là thinh lặng.
Theo truyền thống, các đan sĩ Xitô, và đặc biệt là các Trappist, đã coi việc giữ lời – dùng lại cách diễn đạt của thánh Biển Đức – là một trong những phương thế ưu tuyển trong hành trình tìm kiếm Thiên Chúa. Truyền thống của chúng ta nhấn mạnh điểm này: vì mục đích sống nội tâm, đời sống chung của chúng ta phải được sống trong thinh lặng. Và chính vì vậy, đời sống ấy bao hàm những tập quán cụ thể. Tôi xin nhắc lại một vài điểm hiện thời, rất cụ thể: mỗi đan sĩ được phép trao đổi lời nói với các bề trên và các thành viên trong hội đồng, cũng như với người đồng hành thiêng liêng của mình – người này phải được cha Viện Phụ chấp thuận. Vì nhu cầu công việc, các đan sĩ có thể dùng đến lời nói chức năng, nhưng đúng như tên gọi, lời ấy phải giới hạn trong nhu cầu công việc; ngoài các trường hợp ấy, nếu một đan sĩ muốn nói chuyện với một người khác, trước hết, phải xin phép một bề trên.
Không có gì đáng ngạc nhiên khi những xáo trộn gần đây khiến nảy sinh nhiều lời lẽ qua lại. Nhưng nay cơn rối loạn đã qua, sự bình an đã trở lại, chúng ta cần phải tái lập lại sự thinh lặng đan tu, và để làm được điều đó, cần thực hành cụ thể các phương thế cụ thể vừa nói. Những phương thế ấy không phải là những tàn tích của thời xưa, nhưng là những phương tiện thích hợp cho ngày hôm nay.
Điều này không đơn thuần là một nội quy, mà là một sự trung thành sống đạo đan tu. Cũng như toàn bộ cơ cấu cụ thể của đan viện, những tập quán ấy quy hướng đến điều này: để các đan sĩ kết hiệp mật thiết với Đức Kitô, vì chỉ có tình yêu riêng của mỗi người dành cho Đức Giêsu mới làm cho các ơn gọi riêng biệt trong đời sống Xitô được triển nở.
Vì thế, không thừa nếu ta đặt cho mình câu hỏi: Chúng ta đã sống sự giữ lời ấy ra sao? Chúng ta đã làm gì để cộng đoàn mà ta thuộc về thực sự được hưởng ơn ích ấy? Chúng ta có xem đó là một thực tại không chỉ đáng mơ ước, mà còn là điều thực hành được, cụ thể, cần được thực hiện không?
Cần thiết là mỗi người phải đặt câu hỏi ấy trong thẳm sâu tâm hồn mình, cách ngay chính, để có thể điều chỉnh những gì đã trượt đi, sửa chữa những gì cần được sửa. Rốt cuộc, điều hệ trọng là mỗi người góp phần – theo vị trí của mình – tạo dựng nên một bầu khí cần thiết để ta có thể đáp lại tiếng gọi của Thiên Chúa, bầu khí mà vì đó ta đã đến nơi này và vốn phát sinh từ chính cách sống của chúng ta.
Trong tinh thần ấy, đoạn nhỏ trong chương vừa đọc về nhiệm vụ loan báo giờ của Thiên Chúa mang đến một giáo huấn đáng chú ý. Nó nhấn mạnh rằng một cộng đoàn hiện hữu và quy tụ không phải do ý muốn hay thiện chí của riêng mình, nhưng bởi vì, theo hình ảnh của Hội Thánh, cộng đoàn ấy được triệu hồi để phụng sự Chúa, để thực thi công trình của Thiên Chúa.
Đối với thánh Biển Đức, lời triệu tập này quan trọng đến mức ngài giao trách nhiệm ấy trực tiếp cho cha viện phụ. Ngài sẽ thực hiện điều đó chính mình, hoặc nếu không, sẽ giao cho một đan sĩ đúng giờ. Thánh Biển Đức thật khôn ngoan, khi lường trước cả tình huống này – ai biết được? – rằng có thể gặp một viện phụ không đúng giờ cho lắm!
Hãy dừng lại một chút ở điểm này: sự đúng giờ không chỉ là một phẩm chất tự nhiên của những người có tính cách như chiếc đồng hồ Thụy Sĩ, nhưng sâu xa hơn, đối với người đan sĩ, đó là khả năng tỉnh thức trong một lĩnh vực thiết yếu: khi nào và cách nào để trở về với Thiên Chúa. Chuông gọi chúng ta đến các sinh hoạt chung không là gì khác ngoài một lời nhắc nhở về điều phải dần dần trở thành nội tâm của ta: cần liên lỉ trở về với Thiên Chúa, cần duy trì, như người xưa nói, ký ức về Thiên Chúa, vì nguy cơ lớn nhất rình rập chúng ta chính là sự quên lãng Thiên Chúa, rất dễ bị thay thế bởi muôn vàn điều khác chiếm lấy trí nhớ ta – đôi khi là điều tốt, nhưng thường hơn là những điều tiêu cực. Và chính sự nhai lại tiêu cực ấy làm ta khép kín vào chính mình, dần dần khiến ta mất khả năng phán đoán cách khách quan, và đẩy ta vào vị trí của một thẩm phán nghiêm khắc – tất nhiên là với người khác – và tệ hơn, là mù quáng gần như vô phương cứu chữa với chính hành vi của mình.
Vì chúng ta được hưởng ơn gọi – đúng hơn là hồng ân – được Thiên Chúa kêu gọi trở về với Ngài nhiều lần trong ngày, thì hãy tận dụng những dịp ấy để thực sự đặt mình trong sự hiện diện của Chúa, đặt mình dưới ánh sáng của Thiên Chúa – ánh sáng duy nhất có thể giải thoát chúng ta.
Chương 60 – Những xác tín
Những nguyên tắc của thánh Biển Đức thật nghiêm khắc : Luật Dòng, kỷ luật, sự tuân giữ ! Chúng ta vừa nghe ngay lúc nãy : đối với người muốn ở lại đan viện, mọi sự phải rõ ràng : người ấy sẽ phải tuân giữ toàn bộ kỷ luật của Luật, và không được nới lỏng chút gì! Người ấy chịu sự ràng buộc của việc tuân giữ thường xuyên và không được lấy lý do gì để miễn trừ ! Thật đúng là có thể khiến các ứng sinh nản chí…
Phải chăng đời sống đan tu chỉ đơn giản là kỷ luật, là tuân giữ một quy định bên ngoài? Thật vậy, nếu muốn “lấp đầy” một đan viện ngày nay, xét về mặt tiếp thị, thì bỏ đi, đó không phải là chiến lược hay. Ấy vậy mà… Luật thánh Biển Đức vẫn luôn mang tính thời sự, luôn sinh hoa trái, ở bất cứ nơi đâu – Cha Antoine và thầy Gabriel hẳn có thể minh họa điều này, tôi hy vọng, qua câu chuyện về những cuộc gặp gỡ ở vùng nhiệt đới của họ.
Vậy nên, chúng ta cần suy nghĩ, để hiểu điều gì làm cho những chỉ dẫn của thánh Biển Đức sinh hoa trái. Và còn cách nào hay hơn là tìm hiểu những nền tảng mà thánh Biển Đức đưa ra cho những ứng sinh đến để đáp lại lời mời gọi của Thiên Chúa? Vì thánh Biển Đức nói rất rõ: cần đặt những nền móng vững chắc ngay từ đầu.
Như ta đã thấy trong vấn đề đón tiếp khách, việc đón tiếp các tập sinh, bất kể thuộc loại nào, luôn được diễn tả bằng một chuyển động kép: một mặt, dĩ nhiên, là ý muốn đón nhận những thành viên mới cho cộng đoàn, nếu không có họ, cộng đoàn có nguy cơ biến mất; nhưng đồng thời, cũng có một loạt chỉ dẫn cho thấy một sự dè dặt nhất định trong việc đón nhận, hay đúng hơn, là ý muốn chỉ tiếp nhận vào cộng đoàn những người thực sự được tạo nên để sống ở đó. Ở khía cạnh này, chương 60 mà chúng ta vừa đọc thật sự có ý nghĩa.
Chương này bàn về một hạng người đặc biệt có thể xin được nhận vào đan viện : các linh mục. Thánh Biển Đức, về nguyên tắc, không chống lại việc đón nhận họ vào cộng đoàn, vì với bậc vị của mình, họ có thể nêu gương khiêm nhường cho mọi người. Nhưng đồng thời, ngài không ảo tưởng về những nguy cơ có thể xảy ra nếu đón nhận cách thiếu phân định những người có thể lợi dụng địa vị của mình để thoát khỏi luật chung.
Chỉ dẫn mà thánh Biển Đức đưa ra trong trường hợp này – cũng như cho mọi ứng sinh khác – là trước hết đừng vội vã đón nhận một linh mục ngay khi người ấy vừa xuất hiện, nhưng hãy dành thời gian: đừng dễ dàng chấp nhận lời xin của họ, và chỉ khi họ kiên trì bất biến trong lời thỉnh cầu, thì mới chuyển sang bước kế tiếp.
Và bước đó là g ì? Nếu người ấy kiên trì bất biến, họ phải xác tín rằng mình sẽ phải tuân giữ toàn bộ kỷ luật của Luật và sẽ không được miễn trừ chút gì.
Hãy chú ý đến từ ngữ ở đây: không phải nói rằng ứng sinh phải được báo cho biết rằng mình sẽ tuân giữ toàn bộ kỷ luật của Luật, mà là người ấy phải tự xác tín rằng mình sẽ tuân giữ toàn bộ kỷ luật của Luật. Chủ từ ở đây chính là ứng sinh.
Họ phải tự xác tín. Nói cách khác, để trở thành đan sĩ, những sắp đặt bên ngoài là chưa đủ; cần phải khơi dậy nơi họ một tâm thế nội tâm, một ý hướng sâu xa để bước vào điều mà những sắp đặt bên ngoài diễn tả từ thái độ bên trong. Luôn là sự cân bằng đặc trưng của Luật thánh Biển Đức giữa bề ngoài và nội tâm.
Họ phải tự xác tín. “Xác tín” là động từ gắn với “xác tín” (conviction). Ta cũng có thể nói: họ phải tự xây dựng những xác tín của mình. Thật vậy, nếu không có xác tín vững chắc, ở lại đan viện sẽ trở nên nguy hiểm: sớm muộn, một cơn gió cũng đủ cuốn đi.
Dĩ nhiên, một ứng sinh gõ cửa đan viện không thể ngay lập tức có đủ mọi xác tín đan tu: ơn Chúa có thể đã mở họ ra với một số điều, và có lẽ chính vì thế mà họ đến đan viện; nhưng họ chưa có tất cả. Vậy thì họ phải tự hình thành chúng, nghĩa là xây dựng chúng trong lòng mình. Đó là công việc của chính ứng sinh. Trong quá trình huấn luyện, ta có thể nghĩ rằng bề trên là người chủ động – vì ngài dạy dỗ – còn môn sinh là thụ động – vì họ phải im lặng lắng nghe. Nhưng thực ra, việc huấn luyện chỉ sinh hoa trái nhờ hành động và sự dấn thân của chính môn sinh, người mà từng chút một, sẽ tự rèn luyện các xác tín của mình.
Từ “xác tín” có nghĩa khá rộng, nhưng trọn nghĩa của nó là chỉ một sự chắc chắn nào đó của tâm trí. Nó không phải là sự chắc chắn do đức tin mang lại – dù đức tin là điều rất nên có để trở thành đan sĩ – mà là sự chắc chắn được hình thành qua kinh nghiệm và đủ sâu để trở thành nguyên tắc hướng dẫn hành động. Từ xác tín sẽ nảy sinh một sự gắn bó cá nhân, thúc đẩy những hành vi cụ thể.
Hãy lấy một ví dụ hoàn toàn trung lập: tôi có xác tín rằng một bầu khí thinh lặng là điều cần thiết cho tôi để cầu nguyện, ý tôi muốn nói là để cầu nguyện cách liên tục chứ không ngắt quãng. Sự thinh lặng không phải là đối tượng của đức tin, nhưng đối với đan sĩ, đó là đối tượng của xác tín. Và từ xác tín này phải phát sinh một lối sống cụ thể.
Ta thấy rõ xác tín quan trọng đến mức nào. Tiếng Pháp cũng diễn tả điều đó rất rõ: “agir par conviction” (hành động vì xác tín), “agir avec conviction” (hành động với xác tín) – ta thấy ngay sự nghiêm túc và sự chuyên tâm của người ấy trong việc mình làm; trái lại, “manquer de conviction” (thiếu xác tín) hay “agir sans conviction” (hành động không xác tín) – thì không thể là lý tưởng của đan sĩ.
Đối với thánh Biển Đức, ứng sinh không chỉ cần tỏ ra sẵn sàng tuân thủ cách máy móc các chỉ dẫn bên ngoài, nhưng cần làm cho những phương thế mà Luật đưa ra trở thành của mình. Vì thế, cần xét xem các phương thế bên ngoài ấy có thực sự tương ứng với nhu cầu nội tâm của ứng sinh hay không. Bởi để xây dựng một đan viện, không chỉ cần những người tuân giữ gần như hoàn hảo các quy định chung, nhưng cần những người được thúc đẩy từ bên trong bởi lòng khao khát làm theo ý Chúa, và để diễn tả điều ấy – nhất là để bền vững – họ cần đến các phương thế bên ngoài, và chính là những phương thế mà thánh Biển Đức đã chỉ ra.
Như vậy, ta thấy rõ rằng điều áp dụng cho linh mục xin vào đan viện cũng áp dụng cho mỗi người chúng ta. Điều Luật ban cho chúng ta không phải trước hết là một khuôn khổ bên ngoài mà chúng ta sẽ bước vào – ít nhiều – và rồi, theo thời gian, tìm cách thoát ra – ít nhiều – nhưng là một phương thế để biến đổi lòng ước ao sâu xa mà ân sủng đã đặt vào trái tim ta, thành một tâm thế vững bền, để rồi dần dần định hướng toàn bộ đời sống, mọi hành vi của ta theo hướng gặp gỡ Thiên Chúa.
Chương 41-Những phương tiện cụ thể và cái nhìn về con người
Với vấn đề rất cụ thể là giờ giấc của các bữa ăn, chúng ta đang dần đi tới phần kết của phần thứ nhất trong bản đọc liên tục Luật Thánh Biển Đức, phần nói về tổ chức đời sống vật chất của đan viện. Cũng như đối với toàn bộ phần phụng vụ hay bộ luật sám hối, ta có thể nhìn vào toàn bộ các chương này dưới hai góc độ: hoặc chú ý đến những phương tiện cụ thể mà thánh Biển Đức dùng để tổ chức cộng đoàn, hoặc tìm hiểu điều ẩn sau những lựa chọn cụ thể ấy, điều diễn tả một cái nhìn nhất định về đời sống đan tu cộng đoàn và về con người khao khát trở nên đan sĩ – hai điều này, đối với thánh Biển Đức, hoàn toàn không mâu thuẫn.
Trước hết, thật đáng chú ý là thánh Biển Đức rất cẩn thận mô tả cả những phương tiện đơn sơ nhất giúp đan sĩ tiến bước. Hôm nay, đề tài là giờ giấc của các bữa ăn, thay đổi tùy theo mùa và công việc đồng áng; những ngày trước, là lượng thực phẩm và đồ uống. Nhưng các chỉ dẫn này vượt xa phạm vi vật chất thuần túy. Ta thấy rõ điều đó qua danh sách các phẩm chất mà một quản lý (cellérier) cần có; qua mối tương quan với của cải vật chất và quyền sở hữu; qua việc phục vụ bếp núc lẫn nhau; qua sự chăm sóc bệnh nhân, người già và trẻ em. Trong tất cả những trường hợp ấy, thánh Biển Đức dường như đang vẽ, như trong khoảng trống, một bức chân dung con người theo cách ngài nhìn nhận.
Một nét đầu tiên của bức chân dung ấy, thoạt nhìn có vẻ tiêu cực nhưng thật ra rất thực tế, là: con người không phải một khối thống nhất, hoàn toàn trắng hoặc hoàn toàn đen. Con người là một tổng hòa phức tạp của nhiều thực tại, đôi khi mâu thuẫn, thường là mâu thuẫn, mà đời sống đan tu, về nguyên tắc, phải dần dần giúp họ thống nhất lại.
Người đã dâng mình cho Thiên Chúa chưa hẳn đã là thánh : đó vẫn là người có xu hướng tích trữ những của cải vô ích; là người chăm sóc bệnh nhân được trao phó cho mình một cách hời hợt; là bệnh nhân khéo léo lợi dụng tình trạng bệnh tật để xin những thứ mình không thực sự cần, nhằm thỏa mãn sở thích cá nhân ; là người tìm kiếm hư danh từ bất cứ điều gì, kể cả từ việc đọc sách trước công chúng !
Nhưng đó cũng là người sẵn sàng hiến thân trọn vẹn và vô điều kiện cho cộng đoàn; là người sẽ học được rằng tự do đích thực đi qua sự làm chủ của cải vật chất, kể cả những gì cần thiết ; là người sẽ nhận ra Đức Kitô nơi những anh em yếu đuối nhất ; là người không ngần ngại làm điều thiện khi cơ hội đến, dù phải hy sinh.
Một điểm đáng chú ý trong toàn bộ phần nói về tổ chức vật chất này, là thánh Biển Đức tìm cách dạy cho đan sĩ biết giữ một khoảng cách lành mạnh với nhu cầu và ước muốn của chính mình. Chẳng hạn, về giờ giấc bữa ăn : họ không ăn khi cảm thấy đói, khi có ham muốn bên trong gọi là “cảm giác thèm ăn”, nhưng ăn vào giờ cố định, dựa theo tiêu chí bên ngoài là mùa và công việc.
Thánh Biển Đức ít dành chỗ cho cảm xúc. Đúng hơn, ngài muốn tích hợp cảm xúc vào trong một toàn thể rộng lớn và được sắp xếp hợp lý hơn, nơi mà lý trí và vâng phục sẽ thiết lập một trật tự nội tâm đích thực. Mục tiêu của thánh Biển Đức là một công trình xây dựng nội tâm, và để bền vững, công trình ấy phải xuất phát từ thực tế – thực tế của chính con người chúng ta. Luật của ngài, vì thế, là một trường học vững chắc của tinh thần thực tế.
Một hệ quả quan trọng có thể diễn tả như sau : Đan sĩ “thành công”, nếu có thể gọi như vậy, không phải là người thực hiện tuyệt đối mọi chi tiết của Luật mà chưa từng vi phạm. Ta vẫn gặp những “nhà vô địch” về quy tắc, ràng buộc từng cử chỉ nhỏ nhất của mình bằng những chuẩn mực nghiêm ngặt, và thường áp đặt chúng lên người khác. Không, thánh Biển Đức không mời gọi ta siết chặt bản thân đến mức không để lộ bất cứ yếu đuối nào ; nhưng mời gọi ta hiểu rằng những yếu đuối và giới hạn – tất nhiên cần được định hướng để không cuốn ta đi – lại chính là con đường mà ân sủng sẽ đến với ta, là con đường dẫn ta đến cuộc gặp gỡ với Ngài.
Thiên tài của thánh Biển Đức là soạn một luật không phải cho những anh hùng phiêu lưu thiêng liêng, nhưng cho những con người đơn sơ, có thể gặp ở mọi nơi và mọi thời, những người vừa có giới hạn vừa có khả năng đạt đến một mức hiểu biết bản thân, rồi dùng hiểu biết ấy để dâng mình cho Thiên Chúa cách trọn vẹn hơn.
Có lẽ, ngoài các yếu tố lịch sử hay chính trị, chính điều này đã làm nên sức sống của một bản Luật, đến nay vẫn hướng tới những con người như thế : những người vừa hữu hạn vừa “có khả năng thuộc về Thiên Chúa”. Nếu chúng ta thuộc số ấy, ta có thể hy vọng, như thánh Biển Đức nói ở đoạn kết, thực hành được “quy luật nhỏ bé này” viết cho những người mới bắt đầu.
Luôn ghi nhớ trong tâm trí rằng ta luôn là người mới bắt đầu sẽ giúp ta tránh được nhiều ảo tưởng ; giúp ta vượt qua những ác cảm hay lười biếng ngăn cản việc phục vụ Thiên Chúa và anh em thật sự ; khơi dậy nơi ta điều tốt nhất để nó được bộc lộ và triển nở – không phải qua những hành động ngoạn mục hay phi thường, nhưng đơn giản là bằng cách thực hành, trong đời thường, sự hiểu biết bản thân khiến ta vừa thận trọng vừa can đảm, biết đón nhận cả thành công lẫn thất bại mà không nản lòng hay tự cao, và nhờ đó dần dần có được trong tim sự bình an, nguồn mạch đích thực của mọi việc lành.
Làm đan sĩ Biển Đức, và càng hơn nữa khi ở trong trường học Xitô, chính là như thế, qua từng chi tiết của đời sống hằng ngày. Khi dẫn ta đến đan viện, Thiên Chúa ban cho ta cơ hội này. Còn lại, là do ta lựa chọn.