Những nguyên tắc của thánh Biển Đức thật nghiêm khắc : Luật Dòng, kỷ luật, sự tuân giữ ! Chúng ta vừa nghe ngay lúc nãy : đối với người muốn ở lại đan viện, mọi sự phải rõ ràng : người ấy sẽ phải tuân giữ toàn bộ kỷ luật của Luật, và không được nới lỏng chút gì! Người ấy chịu sự ràng buộc của việc tuân giữ thường xuyên và không được lấy lý do gì để miễn trừ ! Thật đúng là có thể khiến các ứng sinh nản chí…
Phải chăng đời sống đan tu chỉ đơn giản là kỷ luật, là tuân giữ một quy định bên ngoài? Thật vậy, nếu muốn “lấp đầy” một đan viện ngày nay, xét về mặt tiếp thị, thì bỏ đi, đó không phải là chiến lược hay. Ấy vậy mà… Luật thánh Biển Đức vẫn luôn mang tính thời sự, luôn sinh hoa trái, ở bất cứ nơi đâu – Cha Antoine và thầy Gabriel hẳn có thể minh họa điều này, tôi hy vọng, qua câu chuyện về những cuộc gặp gỡ ở vùng nhiệt đới của họ.
Vậy nên, chúng ta cần suy nghĩ, để hiểu điều gì làm cho những chỉ dẫn của thánh Biển Đức sinh hoa trái. Và còn cách nào hay hơn là tìm hiểu những nền tảng mà thánh Biển Đức đưa ra cho những ứng sinh đến để đáp lại lời mời gọi của Thiên Chúa? Vì thánh Biển Đức nói rất rõ: cần đặt những nền móng vững chắc ngay từ đầu.
Như ta đã thấy trong vấn đề đón tiếp khách, việc đón tiếp các tập sinh, bất kể thuộc loại nào, luôn được diễn tả bằng một chuyển động kép: một mặt, dĩ nhiên, là ý muốn đón nhận những thành viên mới cho cộng đoàn, nếu không có họ, cộng đoàn có nguy cơ biến mất; nhưng đồng thời, cũng có một loạt chỉ dẫn cho thấy một sự dè dặt nhất định trong việc đón nhận, hay đúng hơn, là ý muốn chỉ tiếp nhận vào cộng đoàn những người thực sự được tạo nên để sống ở đó. Ở khía cạnh này, chương 60 mà chúng ta vừa đọc thật sự có ý nghĩa.
Chương này bàn về một hạng người đặc biệt có thể xin được nhận vào đan viện : các linh mục. Thánh Biển Đức, về nguyên tắc, không chống lại việc đón nhận họ vào cộng đoàn, vì với bậc vị của mình, họ có thể nêu gương khiêm nhường cho mọi người. Nhưng đồng thời, ngài không ảo tưởng về những nguy cơ có thể xảy ra nếu đón nhận cách thiếu phân định những người có thể lợi dụng địa vị của mình để thoát khỏi luật chung.
Chỉ dẫn mà thánh Biển Đức đưa ra trong trường hợp này – cũng như cho mọi ứng sinh khác – là trước hết đừng vội vã đón nhận một linh mục ngay khi người ấy vừa xuất hiện, nhưng hãy dành thời gian: đừng dễ dàng chấp nhận lời xin của họ, và chỉ khi họ kiên trì bất biến trong lời thỉnh cầu, thì mới chuyển sang bước kế tiếp.
Và bước đó là g ì? Nếu người ấy kiên trì bất biến, họ phải xác tín rằng mình sẽ phải tuân giữ toàn bộ kỷ luật của Luật và sẽ không được miễn trừ chút gì.
Hãy chú ý đến từ ngữ ở đây: không phải nói rằng ứng sinh phải được báo cho biết rằng mình sẽ tuân giữ toàn bộ kỷ luật của Luật, mà là người ấy phải tự xác tín rằng mình sẽ tuân giữ toàn bộ kỷ luật của Luật. Chủ từ ở đây chính là ứng sinh.
Họ phải tự xác tín. Nói cách khác, để trở thành đan sĩ, những sắp đặt bên ngoài là chưa đủ; cần phải khơi dậy nơi họ một tâm thế nội tâm, một ý hướng sâu xa để bước vào điều mà những sắp đặt bên ngoài diễn tả từ thái độ bên trong. Luôn là sự cân bằng đặc trưng của Luật thánh Biển Đức giữa bề ngoài và nội tâm.
Họ phải tự xác tín. “Xác tín” là động từ gắn với “xác tín” (conviction). Ta cũng có thể nói: họ phải tự xây dựng những xác tín của mình. Thật vậy, nếu không có xác tín vững chắc, ở lại đan viện sẽ trở nên nguy hiểm: sớm muộn, một cơn gió cũng đủ cuốn đi.
Dĩ nhiên, một ứng sinh gõ cửa đan viện không thể ngay lập tức có đủ mọi xác tín đan tu: ơn Chúa có thể đã mở họ ra với một số điều, và có lẽ chính vì thế mà họ đến đan viện; nhưng họ chưa có tất cả. Vậy thì họ phải tự hình thành chúng, nghĩa là xây dựng chúng trong lòng mình. Đó là công việc của chính ứng sinh. Trong quá trình huấn luyện, ta có thể nghĩ rằng bề trên là người chủ động – vì ngài dạy dỗ – còn môn sinh là thụ động – vì họ phải im lặng lắng nghe. Nhưng thực ra, việc huấn luyện chỉ sinh hoa trái nhờ hành động và sự dấn thân của chính môn sinh, người mà từng chút một, sẽ tự rèn luyện các xác tín của mình.
Từ “xác tín” có nghĩa khá rộng, nhưng trọn nghĩa của nó là chỉ một sự chắc chắn nào đó của tâm trí. Nó không phải là sự chắc chắn do đức tin mang lại – dù đức tin là điều rất nên có để trở thành đan sĩ – mà là sự chắc chắn được hình thành qua kinh nghiệm và đủ sâu để trở thành nguyên tắc hướng dẫn hành động. Từ xác tín sẽ nảy sinh một sự gắn bó cá nhân, thúc đẩy những hành vi cụ thể.
Hãy lấy một ví dụ hoàn toàn trung lập: tôi có xác tín rằng một bầu khí thinh lặng là điều cần thiết cho tôi để cầu nguyện, ý tôi muốn nói là để cầu nguyện cách liên tục chứ không ngắt quãng. Sự thinh lặng không phải là đối tượng của đức tin, nhưng đối với đan sĩ, đó là đối tượng của xác tín. Và từ xác tín này phải phát sinh một lối sống cụ thể.
Ta thấy rõ xác tín quan trọng đến mức nào. Tiếng Pháp cũng diễn tả điều đó rất rõ: “agir par conviction” (hành động vì xác tín), “agir avec conviction” (hành động với xác tín) – ta thấy ngay sự nghiêm túc và sự chuyên tâm của người ấy trong việc mình làm; trái lại, “manquer de conviction” (thiếu xác tín) hay “agir sans conviction” (hành động không xác tín) – thì không thể là lý tưởng của đan sĩ.
Đối với thánh Biển Đức, ứng sinh không chỉ cần tỏ ra sẵn sàng tuân thủ cách máy móc các chỉ dẫn bên ngoài, nhưng cần làm cho những phương thế mà Luật đưa ra trở thành của mình. Vì thế, cần xét xem các phương thế bên ngoài ấy có thực sự tương ứng với nhu cầu nội tâm của ứng sinh hay không. Bởi để xây dựng một đan viện, không chỉ cần những người tuân giữ gần như hoàn hảo các quy định chung, nhưng cần những người được thúc đẩy từ bên trong bởi lòng khao khát làm theo ý Chúa, và để diễn tả điều ấy – nhất là để bền vững – họ cần đến các phương thế bên ngoài, và chính là những phương thế mà thánh Biển Đức đã chỉ ra.
Như vậy, ta thấy rõ rằng điều áp dụng cho linh mục xin vào đan viện cũng áp dụng cho mỗi người chúng ta. Điều Luật ban cho chúng ta không phải trước hết là một khuôn khổ bên ngoài mà chúng ta sẽ bước vào – ít nhiều – và rồi, theo thời gian, tìm cách thoát ra – ít nhiều – nhưng là một phương thế để biến đổi lòng ước ao sâu xa mà ân sủng đã đặt vào trái tim ta, thành một tâm thế vững bền, để rồi dần dần định hướng toàn bộ đời sống, mọi hành vi của ta theo hướng gặp gỡ Thiên Chúa.