Chương 66 – Cổng tu viện

Cha Thánh Tổ phụ Biển Đức của chúng ta đã lầm chăng ? Chương 66 mà chúng ta vừa nghe, thay vì : « Về những người giữ cửa đan viện », lẽ ra không phải nên được đặt tựa là : « Về cửa đan viện » sao ? Bởi vì chính điều đó mà thánh Biển Đức đang nói đến ở đây. Chẳng phải chương này cũng đã bắt đầu bằng những lời : « Tại cửa đan viện » đó sao ? Cửa – đó là một yếu tố quan trọng. Sẽ chẳng có kiến trúc sư nào nói ngược lại.

Tại sao lại có một cánh cửa ? Bởi vì con người cần có một đời sống nội tâm. Và để đời sống nội tâm ấy khả hữu, cần phải có một không gian nội tâm. Đó chính là điều mà kiến trúc tạo nên. « Thuở ban đầu, kiến trúc sư đã tách biệt bên trong và bên ngoài. Qua một buổi chiều, và một buổi sáng. Và kiến trúc sư thấy rằng điều ấy là tốt đẹp. » Nhưng rồi, cần phải có cách để bên trong và bên ngoài có thể giao tiếp. Vậy nên, vào ngày thứ hai, kiến trúc sư đã tạo ra cánh cửa.

Đó chính là câu chuyện, là lý do tại sao đan viện lại có một cánh cửa : nó là điểm nối kết giữa bên trong và bên ngoài.

Một cánh cửa nên đóng hay mở ? Về căn bản, cửa không được tạo ra để đóng kín, mà để mở ra. Những yếu tố xây dựng không mở ra được, đó không phải là cửa, mà là tường. Cửa được dựng nên để mở ra, nhưng không phải mở cách tùy tiện, nhất là trong một đan viện. Và chính điều này là trọng tâm của chương 66.

Thánh Biển Đức thấy rõ một sự hiển nhiên : người ta có thể đi qua cửa theo cả hai chiều. Cửa vừa là lối để người ngoài đi vào, vừa là lối để người trong đi ra. Do đó, chương này có hai phần. Người từ bên ngoài thì phải được tiếp đón. Dù giàu hay nghèo, họ cần gặp được ai đó để nói chuyện, và sẽ được đáp lại trong đức ái. Nhưng thánh Biển Đức nói rõ : việc tiếp đón này, khi thực hiện các bổn phận của đức ái, phải đồng thời ngăn không để người ngoài đi vào bên trong đan viện.

Còn những người ở bên trong – tức là các đan sĩ – thì phải tránh không đi ra ngoài. « Đan viện phải được sắp xếp sao cho ở đó có mọi sự cần thiết […]. Như vậy, các đan sĩ sẽ không cần phải ra ngoài. »

Thánh Biển Đức thiết lập rất rõ một sự phân biệt, thậm chí một ranh giới : đan sĩ ở bên trong, người đời ở bên ngoài. Và cửa chính là điểm nối chiến lược giữa hai thế giới.

Vậy tại sao, với tầm quan trọng như thế, tựa chương này lại không phải là : « Về cửa đan viện », mà lại là : « Về những người giữ cửa đan viện » ? Điều này nói lên một điểm rất đặc trưng nơi thánh Biển Đức : mối quan tâm của ngài luôn hướng về con người. Quả thật, ngài không ngần ngại đưa ra luật lệ về những khía cạnh vật chất của đời sống, nhưng điều luôn được đặt lên hàng đầu chính là con người, vai trò của họ, cách cư xử của họ, đời sống nội tâm của họ.

Thánh Biển Đức bắt đầu từ nơi chốn : « Tại cửa đan viện… », rồi ngay sau đó chuyển sang con người : « Người ta sẽ đặt ở đó một vị lão thành khôn ngoan ». Ở vị trí này, thánh Biển Đức thực sự phác họa chân dung một đan sĩ đã đạt tới một mức độ hoàn thiện. Như thế, không chỉ liên quan đến người giữ cửa, mà đến mọi đan sĩ. Xin hãy xem.

Phẩm chất thứ nhất : sự khôn ngoan – chỉ thế thôi ! Tôi chúc anh em có một hành trình học tập tốt.

Phẩm chất thứ hai : một khoảng cách nhất định đối với chính mình, đặc biệt là đối với những cảm xúc của bản thân. Tôi xin giải thích. Người giữ cửa phải biết tiếp nhận và trao lại một thông điệp. Thoạt nhìn, có gì bình thường. Thế nhưng, nếu nhìn kỹ, phải công nhận rằng điều đó không hề dễ. Nếu là một thông điệp viết, có vẻ dễ : cầm tờ giấy hay phong bì và đưa cho người nhận ; rồi làm điều ngược lại khi có hồi đáp – nhưng ngay cả ở đây cũng cần thận trọng, kẻo lầm người nhận, cần kín đáo, đừng tò mò nhìn vào nội dung, cần kiên nhẫn chờ câu trả lời để chuyển lại. Tất cả đều là những phẩm chất không dễ gặp. Suy cho cùng : biết bao thông điệp bị thất lạc, bao sự bất cẩn, bao sự thiếu nhẫn nại ! Người giữ cửa cần có những phẩm chất không tầm thường. Lại càng khó hơn khi là một thông điệp miệng : làm sao để truyền đạt chính xác, không phản bội điều được nhắn nhủ bởi giọng nói hay cách chọn từ sai lạc ? Và làm sao để chuyển lại câu trả lời cũng với sự trung thực như thế ? Điều này đòi hỏi khả năng làm chủ bản thân, biết phán đoán điều gì cần nói, nói thế nào, nói khi nào, nói cho ai, để thông điệp được chuyển đạt ; nhất là cần có sự tách biệt đối với cảm xúc của mình – điều kiện để có sự tinh tế và khách quan, nhờ đó ta chuyển đạt đúng nội dung đã nhận, chứ không phải chỉ là ấn tượng hay cảm xúc của ta về thông điệp ấy. Thử nhìn nhận : điều này đâu phải tự nhiên !

Người giữ cửa phải là người của sự liên hệ, phải tạo nên mối nối giữa hai người, mà không biến mình thành tấm màn che chắn họ. Tất cả chúng ta, suốt ngày, đều kinh nghiệm sự khó khăn trong việc tương quan hoặc đặt người này trong mối liên hệ với người khác. Đây là một học hỏi thường nhật, và đời sống đan tu trao cho chúng ta những phương thế quý giá – miễn là ta biết dùng đến.

Thánh Biển Đức còn nói đến sự trưởng thành nơi người giữ cửa, để giúp họ tránh khỏi sự nhàn rỗi. Trưởng thành nhân bản và thiêng liêng làm cho người này đã đồng hóa các giá trị đan tu, sống chúng từ bên trong. Vì thế, thánh Biển Đức không cần chất thêm cho Luật nhiều khoản luật chi li. Trái với Luật của Thầy, thánh Biển Đức đặt niềm tin nơi sự trưởng thành của các đan sĩ – nhưng điều đó đòi hỏi họ phải xây dựng trong chính mình những xác tín đan tu vững vàng ; và chính họ chịu trách nhiệm về điều đó.

Những đặc điểm khác : sự mau mắn trong hồi đáp, tâm tình tạ ơn (Deo gratias !), sự hiền lành phát sinh từ lòng kính sợ Thiên Chúa, đức ái, lòng sốt sắng. Đọc như thể thánh Biển Đức đã viết Luật của mình khi đang ngắm nhìn các người giữ cửa của Sept-Fons !

Và còn chi tiết này : « Nếu người giữ cửa cần giúp đỡ, thì cho họ một sư huynh trẻ hơn để hỗ trợ. » Biết nhìn nhận mình cần sự giúp đỡ đâu phải dễ ; xin sự giúp đỡ, lại càng khó hơn. Và đón nhận một sư huynh trẻ, với sự nhiệt thành, đôi khi cả sự bồn chồn của anh ta, rồi cố gắng đào tạo, kiên nhẫn giải thích, dần dần trao phó trách nhiệm cho anh ta – thật sự, người giữ cửa theo thánh Biển Đức quả là một bậc hiền nhân.

Mối bận tâm của thánh Biển Đức về con người, sự nhấn mạnh của ngài, cũng được tìm thấy trong phần hai của chương, liên quan đến việc bố trí đan viện. Thánh Biển Đức chỉ ra ý nghĩa thiêng liêng : đan viện phải có mọi điều cần thiết, để đan sĩ không phải ra ngoài, điều hoàn toàn không có lợi cho linh hồn họ. Mục đích sau cùng của toàn bộ tổ chức trong đan viện chính là linh hồn các huynh đệ.

Để linh hồn ấy được lớn lên, đan viện không thể là một nhà kính nơi những loài cây quý hiếm mong manh mọc lên, được bảo vệ khỏi mọi cơn gió – đó chắc chắn không phải là viễn tượng Biển Đức. Nhưng nó cũng không thể là một không gian phơi mở cho mọi luồng gió, nơi những giá trị chiêm niệm bị cuốn đi ngay từ cơn gió đầu tiên. Nó phải là một không gian được tổ chức khôn ngoan, cho phép sống cách thường hằng trong giới hạn của nó, và để mỗi khi phải ra ngoài thì luôn giữ một thái độ dè dặt.

Chính sự dè dặt này sẽ là dấu chỉ của việc chúng ta thực sự dấn thân. Nếu chúng ta tìm kiếm mọi dịp, dù tốt hay xấu, để ra ngoài đan viện, thì chúng ta chưa hiểu đan viện là gì. Nhưng nếu chúng ta đón nhận những lần ra ngoài không thể tránh, và luôn giữ tâm tình : điều chính yếu của chuyến đi là để trở về, thì khi ấy chúng ta đã bước vào tâm thế đan tu mà thánh Biển Đức mô tả nơi đây. Và điều đó sẽ mang lại ích lợi cho linh hồn chúng ta.