Chương 47 – Bình an

Đời sống đan tu không phải là một dòng sông êm đềm! Gần đây, đối với chúng ta, nó lại giống một dòng suối chảy xiết, có thác ghềnh, ghềnh đá, đôi lúc là những hố sâu và những xoáy nước — nói chung là rất xa một con sông uy nghi và thanh bình, nơi con thuyền của chúng ta có thể ung dung lướt nhẹ. Nhưng chẳng phải đó chính là cuộc sống, là đời sống con người sao? Luôn xen kẽ giữa mưa giông và nắng đẹp?

Thực ra, cả Tin Mừng lẫn Luật Thánh Biển Đức chưa bao giờ hứa với chúng ta một hành trình dễ dàng, không phải là một con đường nhựa mới trải trên đó ta có thể lướt đi mà không chút cản trở. Không, đừng mơ tưởng như thế.

Thế nhưng, khẩu hiệu của dòng Biển Đức là “pax – bình an” không phải là một điều dối trá. Gương của một số vị thánh đã minh chứng điều đó: một sự bình an sâu xa bên trong hoàn toàn có thể hiện diện giữa những xáo trộn bên ngoài. Hãy xem thánh Lêô Cả – nay đang là thời thịnh hành nói về các Đức Giáo hoàng mang tên Lêô, thì ngài là vị đầu tiên: Đức Giáo hoàng Lêô I. Ta thấy ngài lo lắng cho người Lombards, người Gaulois, người Angles hay người Saxons; ngài chứng kiến sự sụp đổ của Đế quốc Rôma và phải thay thế quyền lực đã suy tàn ấy; chỉ với uy tín cá nhân, ngài đã đối mặt với người man rợ, khiến quân Hung của Attila phải rút lui, nhưng chỉ một thời gian ngắn sau đó, không thể ngăn nổi thành Rôma bị người Vandal dưới quyền Genseric cướp phá – dẫu ngài đã tránh được cuộc tàn sát và phá hủy. Thế nhưng, các bài giảng của ngài vẫn là những bài giáo lý bình an, xoay quanh các mầu nhiệm thiêng liêng, cách riêng là mầu nhiệm Đức Kitô, từ đó ngài rút ra những bài học thực hành cho đời sống Kitô hữu.

Để đạt tới sự khôn ngoan bình thản ấy, sự khôn ngoan vượt trên mọi náo động, chúng ta chỉ cần đi theo thánh Biển Đức – đúng vậy, lại một lần nữa đi theo thánh Biển Đức. Trong Luật Dòng, ngài không dạy chúng ta tránh né khó khăn – ai mà tránh được? – nhưng ngài còn làm hơn thế: ngài dạy chúng ta cách đối diện với khó khăn, đúng hơn, cách sử dụng chúng như những chiếc ván nhún để tiến về với Thiên Chúa. Và ngài trao cho chúng ta những phương thế, rất cụ thể, mà chúng ta phải không ngừng trở về với chúng.

Một trong những phương thế ấy hôm nay mang ý nghĩa đặc biệt quan trọng cho cộng đoàn chúng ta, để đời sống chung của chúng ta không thêm vào sự bối rối và xáo trộn của lòng người, nhưng trái lại, làm dịu nó và hướng nó về Thiên Chúa. Phương thế ấy chính là thinh lặng.

Theo truyền thống, các đan sĩ Xitô, và đặc biệt là các Trappist, đã coi việc giữ lời – dùng lại cách diễn đạt của thánh Biển Đức – là một trong những phương thế ưu tuyển trong hành trình tìm kiếm Thiên Chúa. Truyền thống của chúng ta nhấn mạnh điểm này: vì mục đích sống nội tâm, đời sống chung của chúng ta phải được sống trong thinh lặng. Và chính vì vậy, đời sống ấy bao hàm những tập quán cụ thể. Tôi xin nhắc lại một vài điểm hiện thời, rất cụ thể: mỗi đan sĩ được phép trao đổi lời nói với các bề trên và các thành viên trong hội đồng, cũng như với người đồng hành thiêng liêng của mình – người này phải được cha Viện Phụ chấp thuận. Vì nhu cầu công việc, các đan sĩ có thể dùng đến lời nói chức năng, nhưng đúng như tên gọi, lời ấy phải giới hạn trong nhu cầu công việc; ngoài các trường hợp ấy, nếu một đan sĩ muốn nói chuyện với một người khác, trước hết, phải xin phép một bề trên.

Không có gì đáng ngạc nhiên khi những xáo trộn gần đây khiến nảy sinh nhiều lời lẽ qua lại. Nhưng nay cơn rối loạn đã qua, sự bình an đã trở lại, chúng ta cần phải tái lập lại sự thinh lặng đan tu, và để làm được điều đó, cần thực hành cụ thể các phương thế cụ thể vừa nói. Những phương thế ấy không phải là những tàn tích của thời xưa, nhưng là những phương tiện thích hợp cho ngày hôm nay.

Điều này không đơn thuần là một nội quy, mà là một sự trung thành sống đạo đan tu. Cũng như toàn bộ cơ cấu cụ thể của đan viện, những tập quán ấy quy hướng đến điều này: để các đan sĩ kết hiệp mật thiết với Đức Kitô, vì chỉ có tình yêu riêng của mỗi người dành cho Đức Giêsu mới làm cho các ơn gọi riêng biệt trong đời sống Xitô được triển nở.

Vì thế, không thừa nếu ta đặt cho mình câu hỏi: Chúng ta đã sống sự giữ lời ấy ra sao? Chúng ta đã làm gì để cộng đoàn mà ta thuộc về thực sự được hưởng ơn ích ấy? Chúng ta có xem đó là một thực tại không chỉ đáng mơ ước, mà còn là điều thực hành được, cụ thể, cần được thực hiện không?

Cần thiết là mỗi người phải đặt câu hỏi ấy trong thẳm sâu tâm hồn mình, cách ngay chính, để có thể điều chỉnh những gì đã trượt đi, sửa chữa những gì cần được sửa. Rốt cuộc, điều hệ trọng là mỗi người góp phần – theo vị trí của mình – tạo dựng nên một bầu khí cần thiết để ta có thể đáp lại tiếng gọi của Thiên Chúa, bầu khí mà vì đó ta đã đến nơi này và vốn phát sinh từ chính cách sống của chúng ta.

Trong tinh thần ấy, đoạn nhỏ trong chương vừa đọc về nhiệm vụ loan báo giờ của Thiên Chúa mang đến một giáo huấn đáng chú ý. Nó nhấn mạnh rằng một cộng đoàn hiện hữu và quy tụ không phải do ý muốn hay thiện chí của riêng mình, nhưng bởi vì, theo hình ảnh của Hội Thánh, cộng đoàn ấy được triệu hồi để phụng sự Chúa, để thực thi công trình của Thiên Chúa.

Đối với thánh Biển Đức, lời triệu tập này quan trọng đến mức ngài giao trách nhiệm ấy trực tiếp cho cha viện phụ. Ngài sẽ thực hiện điều đó chính mình, hoặc nếu không, sẽ giao cho một đan sĩ đúng giờ. Thánh Biển Đức thật khôn ngoan, khi lường trước cả tình huống này – ai biết được? – rằng có thể gặp một viện phụ không đúng giờ cho lắm!

Hãy dừng lại một chút ở điểm này: sự đúng giờ không chỉ là một phẩm chất tự nhiên của những người có tính cách như chiếc đồng hồ Thụy Sĩ, nhưng sâu xa hơn, đối với người đan sĩ, đó là khả năng tỉnh thức trong một lĩnh vực thiết yếu: khi nào và cách nào để trở về với Thiên Chúa. Chuông gọi chúng ta đến các sinh hoạt chung không là gì khác ngoài một lời nhắc nhở về điều phải dần dần trở thành nội tâm của ta: cần liên lỉ trở về với Thiên Chúa, cần duy trì, như người xưa nói, ký ức về Thiên Chúa, vì nguy cơ lớn nhất rình rập chúng ta chính là sự quên lãng Thiên Chúa, rất dễ bị thay thế bởi muôn vàn điều khác chiếm lấy trí nhớ ta – đôi khi là điều tốt, nhưng thường hơn là những điều tiêu cực. Và chính sự nhai lại tiêu cực ấy làm ta khép kín vào chính mình, dần dần khiến ta mất khả năng phán đoán cách khách quan, và đẩy ta vào vị trí của một thẩm phán nghiêm khắc – tất nhiên là với người khác – và tệ hơn, là mù quáng gần như vô phương cứu chữa với chính hành vi của mình.

Vì chúng ta được hưởng ơn gọi – đúng hơn là hồng ân – được Thiên Chúa kêu gọi trở về với Ngài nhiều lần trong ngày, thì hãy tận dụng những dịp ấy để thực sự đặt mình trong sự hiện diện của Chúa, đặt mình dưới ánh sáng của Thiên Chúa – ánh sáng duy nhất có thể giải thoát chúng ta.