Tu luật thánh Biển Đức
Chương 41-Những phương tiện cụ thể và cái nhìn về con người
Với vấn đề rất cụ thể là giờ giấc của các bữa ăn, chúng ta đang dần đi tới phần kết của phần thứ nhất trong bản đọc liên tục Luật Thánh Biển Đức, phần nói về tổ chức đời sống vật chất của đan viện. Cũng như đối với toàn bộ phần phụng vụ hay bộ luật sám hối, ta có thể nhìn vào toàn bộ các chương này dưới hai góc độ: hoặc chú ý đến những phương tiện cụ thể mà thánh Biển Đức dùng để tổ chức cộng đoàn, hoặc tìm hiểu điều ẩn sau những lựa chọn cụ thể ấy, điều diễn tả một cái nhìn nhất định về đời sống đan tu cộng đoàn và về con người khao khát trở nên đan sĩ – hai điều này, đối với thánh Biển Đức, hoàn toàn không mâu thuẫn.
Trước hết, thật đáng chú ý là thánh Biển Đức rất cẩn thận mô tả cả những phương tiện đơn sơ nhất giúp đan sĩ tiến bước. Hôm nay, đề tài là giờ giấc của các bữa ăn, thay đổi tùy theo mùa và công việc đồng áng; những ngày trước, là lượng thực phẩm và đồ uống. Nhưng các chỉ dẫn này vượt xa phạm vi vật chất thuần túy. Ta thấy rõ điều đó qua danh sách các phẩm chất mà một quản lý (cellérier) cần có; qua mối tương quan với của cải vật chất và quyền sở hữu; qua việc phục vụ bếp núc lẫn nhau; qua sự chăm sóc bệnh nhân, người già và trẻ em. Trong tất cả những trường hợp ấy, thánh Biển Đức dường như đang vẽ, như trong khoảng trống, một bức chân dung con người theo cách ngài nhìn nhận.
Một nét đầu tiên của bức chân dung ấy, thoạt nhìn có vẻ tiêu cực nhưng thật ra rất thực tế, là: con người không phải một khối thống nhất, hoàn toàn trắng hoặc hoàn toàn đen. Con người là một tổng hòa phức tạp của nhiều thực tại, đôi khi mâu thuẫn, thường là mâu thuẫn, mà đời sống đan tu, về nguyên tắc, phải dần dần giúp họ thống nhất lại.
Người đã dâng mình cho Thiên Chúa chưa hẳn đã là thánh : đó vẫn là người có xu hướng tích trữ những của cải vô ích; là người chăm sóc bệnh nhân được trao phó cho mình một cách hời hợt; là bệnh nhân khéo léo lợi dụng tình trạng bệnh tật để xin những thứ mình không thực sự cần, nhằm thỏa mãn sở thích cá nhân ; là người tìm kiếm hư danh từ bất cứ điều gì, kể cả từ việc đọc sách trước công chúng !
Nhưng đó cũng là người sẵn sàng hiến thân trọn vẹn và vô điều kiện cho cộng đoàn; là người sẽ học được rằng tự do đích thực đi qua sự làm chủ của cải vật chất, kể cả những gì cần thiết ; là người sẽ nhận ra Đức Kitô nơi những anh em yếu đuối nhất ; là người không ngần ngại làm điều thiện khi cơ hội đến, dù phải hy sinh.
Một điểm đáng chú ý trong toàn bộ phần nói về tổ chức vật chất này, là thánh Biển Đức tìm cách dạy cho đan sĩ biết giữ một khoảng cách lành mạnh với nhu cầu và ước muốn của chính mình. Chẳng hạn, về giờ giấc bữa ăn : họ không ăn khi cảm thấy đói, khi có ham muốn bên trong gọi là “cảm giác thèm ăn”, nhưng ăn vào giờ cố định, dựa theo tiêu chí bên ngoài là mùa và công việc.
Thánh Biển Đức ít dành chỗ cho cảm xúc. Đúng hơn, ngài muốn tích hợp cảm xúc vào trong một toàn thể rộng lớn và được sắp xếp hợp lý hơn, nơi mà lý trí và vâng phục sẽ thiết lập một trật tự nội tâm đích thực. Mục tiêu của thánh Biển Đức là một công trình xây dựng nội tâm, và để bền vững, công trình ấy phải xuất phát từ thực tế – thực tế của chính con người chúng ta. Luật của ngài, vì thế, là một trường học vững chắc của tinh thần thực tế.
Một hệ quả quan trọng có thể diễn tả như sau : Đan sĩ “thành công”, nếu có thể gọi như vậy, không phải là người thực hiện tuyệt đối mọi chi tiết của Luật mà chưa từng vi phạm. Ta vẫn gặp những “nhà vô địch” về quy tắc, ràng buộc từng cử chỉ nhỏ nhất của mình bằng những chuẩn mực nghiêm ngặt, và thường áp đặt chúng lên người khác. Không, thánh Biển Đức không mời gọi ta siết chặt bản thân đến mức không để lộ bất cứ yếu đuối nào ; nhưng mời gọi ta hiểu rằng những yếu đuối và giới hạn – tất nhiên cần được định hướng để không cuốn ta đi – lại chính là con đường mà ân sủng sẽ đến với ta, là con đường dẫn ta đến cuộc gặp gỡ với Ngài.
Thiên tài của thánh Biển Đức là soạn một luật không phải cho những anh hùng phiêu lưu thiêng liêng, nhưng cho những con người đơn sơ, có thể gặp ở mọi nơi và mọi thời, những người vừa có giới hạn vừa có khả năng đạt đến một mức hiểu biết bản thân, rồi dùng hiểu biết ấy để dâng mình cho Thiên Chúa cách trọn vẹn hơn.
Có lẽ, ngoài các yếu tố lịch sử hay chính trị, chính điều này đã làm nên sức sống của một bản Luật, đến nay vẫn hướng tới những con người như thế : những người vừa hữu hạn vừa “có khả năng thuộc về Thiên Chúa”. Nếu chúng ta thuộc số ấy, ta có thể hy vọng, như thánh Biển Đức nói ở đoạn kết, thực hành được “quy luật nhỏ bé này” viết cho những người mới bắt đầu.
Luôn ghi nhớ trong tâm trí rằng ta luôn là người mới bắt đầu sẽ giúp ta tránh được nhiều ảo tưởng ; giúp ta vượt qua những ác cảm hay lười biếng ngăn cản việc phục vụ Thiên Chúa và anh em thật sự ; khơi dậy nơi ta điều tốt nhất để nó được bộc lộ và triển nở – không phải qua những hành động ngoạn mục hay phi thường, nhưng đơn giản là bằng cách thực hành, trong đời thường, sự hiểu biết bản thân khiến ta vừa thận trọng vừa can đảm, biết đón nhận cả thành công lẫn thất bại mà không nản lòng hay tự cao, và nhờ đó dần dần có được trong tim sự bình an, nguồn mạch đích thực của mọi việc lành.
Làm đan sĩ Biển Đức, và càng hơn nữa khi ở trong trường học Xitô, chính là như thế, qua từng chi tiết của đời sống hằng ngày. Khi dẫn ta đến đan viện, Thiên Chúa ban cho ta cơ hội này. Còn lại, là do ta lựa chọn.
Chương 60 – Những xác tín
Những nguyên tắc của thánh Biển Đức thật nghiêm khắc : Luật Dòng, kỷ luật, sự tuân giữ ! Chúng ta vừa nghe ngay lúc nãy : đối với người muốn ở lại đan viện, mọi sự phải rõ ràng : người ấy sẽ phải tuân giữ toàn bộ kỷ luật của Luật, và không được nới lỏng chút gì! Người ấy chịu sự ràng buộc của việc tuân giữ thường xuyên và không được lấy lý do gì để miễn trừ ! Thật đúng là có thể khiến các ứng sinh nản chí…
Phải chăng đời sống đan tu chỉ đơn giản là kỷ luật, là tuân giữ một quy định bên ngoài? Thật vậy, nếu muốn “lấp đầy” một đan viện ngày nay, xét về mặt tiếp thị, thì bỏ đi, đó không phải là chiến lược hay. Ấy vậy mà… Luật thánh Biển Đức vẫn luôn mang tính thời sự, luôn sinh hoa trái, ở bất cứ nơi đâu – Cha Antoine và thầy Gabriel hẳn có thể minh họa điều này, tôi hy vọng, qua câu chuyện về những cuộc gặp gỡ ở vùng nhiệt đới của họ.
Vậy nên, chúng ta cần suy nghĩ, để hiểu điều gì làm cho những chỉ dẫn của thánh Biển Đức sinh hoa trái. Và còn cách nào hay hơn là tìm hiểu những nền tảng mà thánh Biển Đức đưa ra cho những ứng sinh đến để đáp lại lời mời gọi của Thiên Chúa? Vì thánh Biển Đức nói rất rõ: cần đặt những nền móng vững chắc ngay từ đầu.
Như ta đã thấy trong vấn đề đón tiếp khách, việc đón tiếp các tập sinh, bất kể thuộc loại nào, luôn được diễn tả bằng một chuyển động kép: một mặt, dĩ nhiên, là ý muốn đón nhận những thành viên mới cho cộng đoàn, nếu không có họ, cộng đoàn có nguy cơ biến mất; nhưng đồng thời, cũng có một loạt chỉ dẫn cho thấy một sự dè dặt nhất định trong việc đón nhận, hay đúng hơn, là ý muốn chỉ tiếp nhận vào cộng đoàn những người thực sự được tạo nên để sống ở đó. Ở khía cạnh này, chương 60 mà chúng ta vừa đọc thật sự có ý nghĩa.
Chương này bàn về một hạng người đặc biệt có thể xin được nhận vào đan viện : các linh mục. Thánh Biển Đức, về nguyên tắc, không chống lại việc đón nhận họ vào cộng đoàn, vì với bậc vị của mình, họ có thể nêu gương khiêm nhường cho mọi người. Nhưng đồng thời, ngài không ảo tưởng về những nguy cơ có thể xảy ra nếu đón nhận cách thiếu phân định những người có thể lợi dụng địa vị của mình để thoát khỏi luật chung.
Chỉ dẫn mà thánh Biển Đức đưa ra trong trường hợp này – cũng như cho mọi ứng sinh khác – là trước hết đừng vội vã đón nhận một linh mục ngay khi người ấy vừa xuất hiện, nhưng hãy dành thời gian: đừng dễ dàng chấp nhận lời xin của họ, và chỉ khi họ kiên trì bất biến trong lời thỉnh cầu, thì mới chuyển sang bước kế tiếp.
Và bước đó là g ì? Nếu người ấy kiên trì bất biến, họ phải xác tín rằng mình sẽ phải tuân giữ toàn bộ kỷ luật của Luật và sẽ không được miễn trừ chút gì.
Hãy chú ý đến từ ngữ ở đây: không phải nói rằng ứng sinh phải được báo cho biết rằng mình sẽ tuân giữ toàn bộ kỷ luật của Luật, mà là người ấy phải tự xác tín rằng mình sẽ tuân giữ toàn bộ kỷ luật của Luật. Chủ từ ở đây chính là ứng sinh.
Họ phải tự xác tín. Nói cách khác, để trở thành đan sĩ, những sắp đặt bên ngoài là chưa đủ; cần phải khơi dậy nơi họ một tâm thế nội tâm, một ý hướng sâu xa để bước vào điều mà những sắp đặt bên ngoài diễn tả từ thái độ bên trong. Luôn là sự cân bằng đặc trưng của Luật thánh Biển Đức giữa bề ngoài và nội tâm.
Họ phải tự xác tín. “Xác tín” là động từ gắn với “xác tín” (conviction). Ta cũng có thể nói: họ phải tự xây dựng những xác tín của mình. Thật vậy, nếu không có xác tín vững chắc, ở lại đan viện sẽ trở nên nguy hiểm: sớm muộn, một cơn gió cũng đủ cuốn đi.
Dĩ nhiên, một ứng sinh gõ cửa đan viện không thể ngay lập tức có đủ mọi xác tín đan tu: ơn Chúa có thể đã mở họ ra với một số điều, và có lẽ chính vì thế mà họ đến đan viện; nhưng họ chưa có tất cả. Vậy thì họ phải tự hình thành chúng, nghĩa là xây dựng chúng trong lòng mình. Đó là công việc của chính ứng sinh. Trong quá trình huấn luyện, ta có thể nghĩ rằng bề trên là người chủ động – vì ngài dạy dỗ – còn môn sinh là thụ động – vì họ phải im lặng lắng nghe. Nhưng thực ra, việc huấn luyện chỉ sinh hoa trái nhờ hành động và sự dấn thân của chính môn sinh, người mà từng chút một, sẽ tự rèn luyện các xác tín của mình.
Từ “xác tín” có nghĩa khá rộng, nhưng trọn nghĩa của nó là chỉ một sự chắc chắn nào đó của tâm trí. Nó không phải là sự chắc chắn do đức tin mang lại – dù đức tin là điều rất nên có để trở thành đan sĩ – mà là sự chắc chắn được hình thành qua kinh nghiệm và đủ sâu để trở thành nguyên tắc hướng dẫn hành động. Từ xác tín sẽ nảy sinh một sự gắn bó cá nhân, thúc đẩy những hành vi cụ thể.
Hãy lấy một ví dụ hoàn toàn trung lập: tôi có xác tín rằng một bầu khí thinh lặng là điều cần thiết cho tôi để cầu nguyện, ý tôi muốn nói là để cầu nguyện cách liên tục chứ không ngắt quãng. Sự thinh lặng không phải là đối tượng của đức tin, nhưng đối với đan sĩ, đó là đối tượng của xác tín. Và từ xác tín này phải phát sinh một lối sống cụ thể.
Ta thấy rõ xác tín quan trọng đến mức nào. Tiếng Pháp cũng diễn tả điều đó rất rõ: “agir par conviction” (hành động vì xác tín), “agir avec conviction” (hành động với xác tín) – ta thấy ngay sự nghiêm túc và sự chuyên tâm của người ấy trong việc mình làm; trái lại, “manquer de conviction” (thiếu xác tín) hay “agir sans conviction” (hành động không xác tín) – thì không thể là lý tưởng của đan sĩ.
Đối với thánh Biển Đức, ứng sinh không chỉ cần tỏ ra sẵn sàng tuân thủ cách máy móc các chỉ dẫn bên ngoài, nhưng cần làm cho những phương thế mà Luật đưa ra trở thành của mình. Vì thế, cần xét xem các phương thế bên ngoài ấy có thực sự tương ứng với nhu cầu nội tâm của ứng sinh hay không. Bởi để xây dựng một đan viện, không chỉ cần những người tuân giữ gần như hoàn hảo các quy định chung, nhưng cần những người được thúc đẩy từ bên trong bởi lòng khao khát làm theo ý Chúa, và để diễn tả điều ấy – nhất là để bền vững – họ cần đến các phương thế bên ngoài, và chính là những phương thế mà thánh Biển Đức đã chỉ ra.
Như vậy, ta thấy rõ rằng điều áp dụng cho linh mục xin vào đan viện cũng áp dụng cho mỗi người chúng ta. Điều Luật ban cho chúng ta không phải trước hết là một khuôn khổ bên ngoài mà chúng ta sẽ bước vào – ít nhiều – và rồi, theo thời gian, tìm cách thoát ra – ít nhiều – nhưng là một phương thế để biến đổi lòng ước ao sâu xa mà ân sủng đã đặt vào trái tim ta, thành một tâm thế vững bền, để rồi dần dần định hướng toàn bộ đời sống, mọi hành vi của ta theo hướng gặp gỡ Thiên Chúa.