Hãy lắng nghe, hỡi con của ta, lời dạy bảo của một người thầy, hãy mở tai lòng mà nghe lấy. Hãy tự nguyện đón nhận giáo huấn của một người cha hiền mà đem ra thực hành, bằng cách gắng công vâng phục với Đấng mà con đã bất tuân xa lìa vì hèn nhát. Vậy giờ đây, cha ngỏ lời cùng con, nghĩa là cùng những ai từ bỏ ý riêng và mang lấy khí giới mạnh mẽ và cao quý là đức vâng phục, để chiến đấu dưới cờ Chúa Kitô, Vua thật của chúng ta.
Thánh Biển Đức, Tu luật của đan sĩ, Lời mở đầu
Một ngày nọ có người đến hỏi Abba Paesios : « Con phải làm gì cho linh hồn con đây, vì nó đã vô cảm và không còn kính sợ Thiên Chúa ? » Ngài trả lời : « Hãy đi, gắn bó chính con với một người có lòng kính sợ Chúa, và nhờ ở thường xuyên với người mà con sẽ được dạy kính sợ Chúa. »
Giáo huấn của các Đan Phụ sa mạc, Abba Poemen
ời sống cầu nguyện sẽ tự dạy dỗ ta. Cha Thánh Biển Đức gọi đan viện là « trường học phụng sự Chúa ». Ngày nay điều này càng đúng khi mà những bạn trẻ cần có một nền huấn luyện hoàn bị, vừa nhân bản, vừa tri thức và thiêng liêng. Và sở dĩ trong ngôi trường này, đan sĩ phải khuôn mình vào một kỷ luật nào đó là nhằm để phát huy hiệu quả cho việc học nghề phụng sự Chúa của mỗi đan sĩ.
Đâu là những giai đoạn huấn luyện nên một đan sĩ tráppít ?

Một bạn trẻ ước muốn dâng mình cho Chúa ; Chúa Quan Phòng sắp đặt cho anh làm quen với một đan sĩ và giúp anh khám phá đời sống tráppít. Sau nhiều trao đổi qua lại, ước muốn ấy phải hình thành trong anh cách cụ thể hơn : trở thành đan sĩ. Khi đó anh có thể được sáp nhập vào cộng đoàn học viên tại Việt Nam. Đây là cộng đoàn cho những bạn trẻ đang chuẩn bị để trở thành đan sĩ tráppít tại Pháp đang khi học tiếng Pháp trong khuôn khổ đời sống huynh đệ.
Một khi đủ tiến bộ, anh em học viên ấy sẽ đến Pháp và trải nghiệm ba tháng đầu trong Đan viện. Sau những ngày trải nghiệm có dấu hiệu tích cực, anh có thể trở lại Pháp để bắt đầu giai đoạn thỉnh sinh, sẽ kéo dài ít nhất một năm.
Giai đoạn thỉnh sinh kết thúc, anh sẽ được nhận tu phục tập sinh. Hai năm giai đoạn tập được xem như khai tâm cho việc thực hành lối sống đan tu trong khía cạnh nhân bản lẫn thiêng liêng.
Tiếp theo, anh có thể tuyên khấn, trong thời hạn ba năm, những lời khấn đan tu : bền đỗ trong đan viện, hoán cải lối sống và vâng phục. Trong diễn ngữ « hoán cải lối sống » tuyệt vời trên, Cha Thánh Biển Đức đã gói ghém cả hai lời khấn khó nghèo và khiết tịnh ; ta cũng có thể diễn dịch như sau : đan sĩ khấn sống đời trong đan viện, theo lối sống đan tu, không ngừng tìm kiếm Chúa để hoán cải bản thân, để không bám trụ trong chính mình nhưng luôn cẩn phòng – một người canh thức an tịnh – hầu phụng sự Chúa.

Sau ba năm, khấn sinh trẻ có thể tuyên khấn trọng thể và dứt khoát. Các anh em trong giai đoạn huấn luyện theo chương trình giảng dạy được tổ chức trong Đan viện : cách riêng Thánh Kinh, triết học, thần học tín lý và thiêng liêng. Học viện của Đan viện được liên thông với Giáo hoàng Đại học Thánh Ansenmô tại Rôma giúp chuẩn nhận việc học tập trong Đan viện qua bằng cấp chính thức.
Những anh em được ơn kêu gọi trở thành linh mục cũng sẽ chịu chức trong Đan viện, vài năm sau khi khấn trọn. Ngang qua đời sống ẩn dật của mình, đan sĩ-linh mục thi hành chức tư tế nhưng không hoạt động tông đồ trực tiếp, trong sự kết hiệp mật thiết với Đức Kitô. Thánh Lễ mà đan sĩ-linh mục cử hành mỗi ngày chính là hiệu quả siêu nhiên cho vinh quang Chúa và ơn cứu rỗi, nghĩa là hạnh phục của những người đương thời với mình.
Dụ ngôn
Câu chuyện sau đây chỉ là một dụ ngôn, nghĩa là không nên tìm kiếm trong đó những ám chỉ cá nhân nào. Tuy nhiên, để làm cho câu chuyện trở nên cụ thể hơn, ta có thể tưởng tượng rằng nó xảy ra tại đan viện Sept-Fons vào thời xa xưa, chẳng hạn dưới thời Đan Viện phụ Dom Sébastien Wyart.
Hồi ấy, sống gần đan viện có một vị bác sĩ già, không hành đạo, nhưng là một người tử tế, rộng lượng và chính trực, người đã chăm sóc cho các đan sĩ suốt cả sự nghiệp của mình, hoàn toàn miễn phí, chỉ vì lòng tận tụy, và với một ý hướng ít nhiều mơ hồ rằng mình đang « làm điều gì đó cho Thiên Chúa và cho tôn giáo ».
Đức Viện phụ rất kính trọng ông và thường nói với ông :
– Bác sĩ thân mến, tôi có thể làm gì để cám ơn bác vì lòng tận tụy ấy ? Xin cứ nói điều gì bác thích, tôi sẽ rất vui được thực hiện.
Và vị bác sĩ tốt bụng luôn trả lời :
– Thôi, thôi ! Ngài không nợ tôi điều gì cả.
Nhưng một ngày nọ – cũng là năm cuối đời ông – ông nói với Đức Viện phụ :
– Từ lâu, ngài đã cứ nài tôi nói ra một điều ước. Vậy thì, nếu ngài thực sự muốn làm tôi vui lòng, xin cho tôi một đặc ân. Tôi đang bị ám ảnh bởi một vấn đề, và để giải quyết được, tôi cần được ngài chấp thuận một điều…
– Điều gì vậy ? – Viện phụ hỏi.
– Thưa : xin cho phép tôi được tự do đi lại trong đan viện suốt một ngày, và được nói chuyện với mọi đan sĩ mà tôi gặp.
– Ôi chao, điều này thật khó… khó thật đấy ! – Viện phụ đáp – Thôi được, lần này tôi đồng ý. Nhưng không phải hôm nay, tôi cần báo trước cho cộng đoàn để giải thích về sự cho phép bất thường này. Ngày mai nhé. Bác cứ đến sau bữa trưa, và cả buổi chiều bác có thể đi lại tùy ý trong đan viện và trò chuyện với ai bác muốn. Tôi chỉ đặt một điều kiện nhỏ : bác chỉ được nói chuyện với từng người một mà thôi.
– Tuyệt đối như tôi mong muốn – bác sĩ trả lời – vì tôi đang thực hiện một cuộc điều tra nhỏ về một điều rất riêng tư.
Hôm sau, vị bác sĩ già đến nơi. Cả cộng đoàn đã được thông báo, và ai cũng sẵn sàng nói một lời biết ơn với ông. Ông bắt đầu chuyến viếng thăm tại phòng tiếp tân.
Tại phòng tiếp tân, ông hỏi người đan sĩ trực cửa :
– Chào sư huynh.
– Chào bác sĩ.
– Tôi xin hỏi một điều, mong là không khiếm nhã.
– Xin bác sĩ cứ nói.
– Sư huynh có phải là một người chiêm niệm không ?
(Vị đan sĩ sửng sốt…)
– Gì cơ ? Sao cơ ?
– Tôi hỏi : sư huynh có phải là người sống đời chiêm niệm không ?
Vị đan sĩ gượng lại :
– Ồ, dĩ nhiên rồi. Phải chứ. Chúng tôi là một trong những dòng chiêm niệm lớn, cũng như các đan sĩ dòng Chartreux và vài dòng khác…
– Xin lỗi, xin lỗi, sư huynh hiểu nhầm ý tôi rồi. Điều tôi muốn hỏi là : sư huynh, chính sư huynh – người đang đứng trước mặt tôi đây – sư huynh có sống đời chiêm niệm không ?
– À… ờ… cái đó thì… tôi cũng không biết phải nói sao… Với công việc của tôi thì thật khó. Tôi thường xuyên tiếp xúc với thế giới bên ngoài ; tôi nghe đủ thứ tin tức ; tôi phải giao tiếp nhiều… Nhưng công việc này là cần thiết. Phải có người làm chứ ! Trong một đan viện lớn như thế này, có một số người buộc phải hy sinh cho anh em. Không, tôi không phải là người chiêm niệm. Trong công việc tôi đảm nhận, có lẽ điều đó là không thể. Nhưng tôi hy sinh để cộng đoàn có thể sống đời chiêm niệm.
– Ồ ! Ồ ! – bác sĩ lẩm bẩm – Những điều sư huynh nói thật lạ… Tôi chưa từng nghĩ đến. Nhưng có lẽ đúng vậy. Thật đáng tiếc cho sư huynh !
Sau đó, ông đến nhà khách. Ở đó có Cha nhà khách, người quen cũ.
– Chào Cha.
– Chào bác sĩ.
– Thưa Cha, xin cho tôi hỏi một câu.
– Mời bác sĩ cứ hỏi.
– Cha có phải là người chiêm niệm không ?
– Thưa, dĩ nhiên là có. Dòng chúng tôi là một trong ba, bốn dòng chiêm niệm lớn trong Hội Thánh…
– Khoan, khoan… xin Cha hiểu đúng câu hỏi. Điều tôi muốn biết là : chính Cha – Cha khách đây – Cha có sống đời chiêm niệm không ?
– Ồ, câu hỏi này mới kỳ lạ làm sao ! Có cần thiết phải hỏi thế không ? Tôi sống đời chiêm niệm à ? Tôi cũng chẳng biết trả lời sao… Có lẽ là không. Trong nhiệm vụ tôi đảm nhận, liệu có thể không ? Tôi luôn bị khách viếng làm gián đoạn, không thể tham gia đều các sinh hoạt cộng đoàn. Tôi sống bên lề. Bác sĩ biết không, trong một đan viện lớn như thế này, có một số người buộc phải hy sinh lý tưởng mà họ đã tìm kiếm, để những người khác có thể thực hiện được nó. Tôi không phải là người chiêm niệm, tiếc thay ! Nhưng chính là để cho những người khác có thể là như thế.
– Thế à ! – bác sĩ thốt lên – Tôi chẳng thể nào tưởng tượng nổi điều đó ! Nhưng có lẽ Cha nói đúng. Ít ra, sự hy sinh ấy cũng là một niềm an ủi…
Kế đến, ông đến khu nhà bếp. Gặp sư huynh nấu ăn đứng trước cửa.
– Chào sư huynh.
(Cúi chào, mỉm cười.)
– Chào bác sĩ.
– Sư huynh cho tôi hỏi một câu nhỏ nhé.
– Xin cứ hỏi.
– Sư huynh có phải là người chiêm niệm không ?
– Tôi tin là có, bác sĩ ạ. Ồ, đúng rồi ! Người ta còn bảo dòng chúng tôi là dòng chiêm niệm quan trọng nhất nữa.
– Nhưng không, không phải ý tôi vậy đâu. Ý tôi là : chính sư huynh – con người đang đứng đây – sư huynh có phải là người chiêm niệm không ?
– Về chuyện đó, trong công việc như tôi đang làm, chỉ có một điều duy nhất quan trọng : làm việc. Còn những thứ khác, tôi chẳng quan tâm : tôi không có thời gian. Người khác có thời gian. Họ là những người chiêm niệm. Tôi hy vọng rằng, bằng cách hy sinh thời gian của tôi, tôi có thể chia sẻ một phần công trạng của họ. Nhưng tôi không phải là người chiêm niệm. Trong một cộng đoàn lớn như thế này, phải có người hy sinh cho người khác, để họ có thể theo đuổi lý tưởng.
Tại khu làm pho-mát, một sư huynh khác cũng xin lỗi tương tự : từ thời tập viện đến giờ, sư huynh toàn nhận công việc, luôn phải hy sinh như vậy.
Tại vườn rau, vài đan sĩ trẻ đang trồng bắp cải. Họ nói rằng họ đang còn trong giai đoạn học hành, phải chuyên tâm học để sau này có thể dẫn dắt người khác vào đời sống chiêm niệm. Hiện tại, họ chưa phải là người chiêm niệm.
Một vài tập sinh đang làm cỏ bên một lối đi. Họ mới vào đan viện. Câu hỏi về chiêm niệm với họ còn quá xa vời. Họ chưa rõ bề trên có mong họ sống đời chiêm niệm hay không. Trước mắt, họ được dạy phải hy sinh để phục vụ cộng đoàn – những người, theo họ nghĩ, sẽ là người chiêm niệm. Còn về phần mình, thì để sau hẵng hay.
Bên con suối, một đan sĩ già, ốm yếu, đang ngồi tận hưởng nắng ấm. Than ôi ! sư huynh ấy cũng không phải là người chiêm niệm. Thuở đầu đời tu, sư huynh không được đào tạo theo hướng đó. Sau đó, sư huynh làm bề trên một thời gian dài. Bây giờ thì quá muộn. « Nếu tôi không phải là người chiêm niệm – sư huynh kết luận – thì ít ra tôi cũng đã làm việc để người khác có thể là như vậy. »
Cứ thế tiếp tục. Thật xúc phạm đến sự tinh tế của bất kỳ độc giả nào nếu cứ kể mãi những câu trả lời như thế. Vị bác sĩ già, kiên trì một cách đáng khâm phục, tiếp tục điều tra, hết người này đến người khác, gặp lúc thì một đan sĩ trẻ, lúc thì một vị lão thành. Và ông càng lúc càng thầm thốt lên : « Trời đất ơi ! Thật là một vấn đề, một điều bí ẩn ! Nhưng cuối cùng thì… cộng đoàn chiêm niệm ấy – cộng đoàn mà mọi người hy sinh cho – rốt cuộc là ở đâu ? Họ là ai ? Ở đâu rồi những người ấy ? Ở đâu ? Ở đâu các vị ? »
Đi ngang nghĩa trang của đan viện, ông dừng lại thật lâu, tỳ tay lên hàng rào thấp. Ông ngắm nhìn hàng hàng lớp lớp thập giá, mỗi cây mang tên một đan sĩ, như thể đang tiến lại gần ông, để dâng lên một chứng từ chung. Những hàng cây đoạn cao vút, tỏa bóng như mái vòm của một nhà thờ đan viện bao phủ các phần mộ ấy. Nơi đây phảng phất một cảm giác chân thực, như tỏa ra từ mọi vật. Hai từ « tuyệt đối » và « chân lý » chầm chậm dâng lên trong tâm trí ông. Ông yêu nơi ấy bằng cả tấm lòng. Được an ủi, ông thì thầm : « Biết đâu, những « người khác » ấy, lại chính là các vị ? Bởi lẽ, chẳng còn ai khác ngoài các vị. Những người sống, tôi đã gần như hỏi hết rồi, và họ không phải, hay chí ít là không muốn phải. »
Trên đường quay về, ông bác sĩ già lại đi ngang qua nhà khách. Ông bước đi trầm ngâm, lẩm bẩm một mình :
– Thật là một vấn đề, một bí ẩn ! Vượt quá tầm hiểu biết của tôi. Mà tôi cũng chẳng tiến bộ gì hơn lúc đầu.
*
Cha khách mời ông vào phòng tiếp khách và mang ra cho ông một ly nước mát.
Còn lại một mình đối diện với ly nước, ông bác sĩ già chìm vào suy nghĩ sâu xa, và như mỗi khi ông suy nghĩ thật sự, ông để cho thời gian trôi chậm.
Một lúc sau, một nhân vật bước vào – người mà ông bác sĩ nhớ là đã gặp nhiều lần trong đan viện, nhưng chưa bao giờ chú ý đến. Đó là Lucien, người ông vẫn tưởng là người giúp việc, nhưng thật ra là một cư sĩ thân hữu của đan viện.
– Ồ, xin lỗi – Lucien nói khi bước vào – tôi không biết có người ở đây. Tôi cần lau cửa kính.
– Cứ làm đi, anh không làm tôi phiền đâu.
Ông bác sĩ lại tiếp tục chìm trong suy nghĩ. Còn người đàn ông kia thì thinh lặng lau kính. Một lúc sau, ông bác sĩ lên tiếng :
– Lucien, cho tôi hỏi anh một điều được không ?
– Xin mời bác sĩ cứ hỏi.
– Tại sao anh lại vào sống trong đan viện này ? Có phải chỉ để kiếm sống không ?
– Không, thưa bác sĩ. Tôi phục vụ các đan sĩ hoàn toàn miễn phí. Tôi là người thân tín và cũng thuộc về cộng đoàn này.
– À… (Sau một khoảng thinh lặng 🙂 Vậy thì, Lucien, anh chắc cũng biết rõ : các cha có thực sự là những người chiêm niệm như người ta vẫn nói không ?
– Có chứ, thưa bác sĩ.
– Còn anh, Lucien, anh có phải là người chiêm niệm không ?
– Không ạ.
Ông bác sĩ thinh lặng. Lucien cũng thinh lặng. Anh tiếp tục công việc một cách cẩn thận, nhưng bình thản, gần như trong tâm thế hồi tâm.
Một lúc sau, ông bác sĩ già lại hỏi :
– Nếu tôi hiểu đúng, thì anh hy sinh để cho các đan sĩ trong đan viện có thể sống đời chiêm niệm ?
– Ồ không, không hẳn như vậy. Tôi đến đây để hiến mình cho Thiên Chúa trong giới hạn tôi có thể – chỉ đơn giản vậy thôi.
– Vậy là, Lucien, anh không nghĩ đến người khác. Như thế không hay đâu !
– Có chứ, tôi có nghĩ đến họ, thưa bác sĩ. Nhưng chẳng phải Thiên Chúa cũng là « một người khác » – và là một Đấng khác rất quan trọng đấy sao ? Tôi luôn nhận thấy rằng : nếu ta lo cho Thiên Chúa, thì mọi chuyện của con người sẽ đâu vào đấy. Còn nếu ta cứ chạy theo lo cho con người, thì ta thường chỉ làm rối thêm thôi – nhiều hơn là ta tưởng.
– Ồ, Lucien, lý luận của anh nghe cũng có lý đấy chứ !
Rồi lại một khoảng thinh lặng. Sau một lúc lâu, ông bác sĩ lại nói :
– Tội nghiệp Lucien, anh sống ở đây thật khổ. Làm việc vất vả, không có lương. Không vợ con, không tự do, chẳng giải trí… Một cuộc đời như thế ! Sao anh chịu đựng được ?
– À, thưa bác sĩ, nếu nói hết thì dài lắm ! Những điều ông kể, tôi không coi thường, nhưng tôi không cần chúng. Tôi có điều còn hơn thế. Mối bận tâm lớn nhất của tôi là giấu bớt niềm hạnh phúc của mình, để người khác không ghen tỵ, và vì họ sẽ chẳng hiểu được.
– Hạnh phúc ư, Lucien ? Anh biết hạnh phúc là gì sao ? Anh có thể nói về nó ư ? Anh có nó à ?
– Hạnh phúc là sống với Thiên Chúa.
– Gì cơ ? Cái gì cơ ? Anh hãy nói lại xem, hạnh phúc của anh là gì ?
– Là sự hiện diện của Thiên Chúa trong sâu thẳm linh hồn tôi.
– Lucien, sao Thiên Chúa lại có thể hiện diện trong linh hồn anh ? Tôi không hiểu. Một câu nói như thế có nghĩa gì sao ?
Và rồi, người cư sĩ nhỏ bé ấy, một nhân vật tưởng như tầm thường nhất theo tiêu chuẩn bình thường của thế gian, người lau kính ấy, vắt khô miếng bọt biển trong xô và đáp lại một cách bình thản :
– Có chứ. Từ ngày tôi vào đây, đã mười chín năm rồi, tôi luôn cảm nhận được sự hiện diện rất yêu thương của Thiên Chúa trong tôi – và tôi đáp lại Ngài.
*
Trở về nhà, ông bác sĩ không thể nào thoát ra khỏi những suy nghĩ của mình suốt buổi tối. Tâm trí ông cứ xoay quanh chuyện ban chiều.
– Một ngày thật kỳ lạ ! – ông cứ lặp đi lặp lại. – Trời đất ơi ! Tôi đến thăm các đan sĩ ấy chỉ với một câu hỏi đơn giản, mà lại trở về với một nghịch lý lớn, một mầu nhiệm. Tôi chịu thua, không hiểu nổi.
Đêm khuya ông đi ngủ. Nửa đêm, ông tỉnh giấc. Dưới lớp chăn ấm, thân xác và tâm trí thư giãn, ông lại bắt đầu suy nghĩ về ngày hôm qua. Ông ôn lại tất cả các quan sát. Bỗng nhiên, một luồng sáng bừng lên trong tâm trí ông – một ánh sáng lớn – một niềm hứng khởi ! Một bên là cả đan viện to lớn, bên kia là người cư sĩ nhỏ bé ấy… Ông vừa nhận ra một điều gì đó. Đồng thời, ông tìm lại được đức tin. Một tiếng reo khâm phục sắp bật ra khỏi miệng, nhưng ông kìm lại, và giữ thinh lặng. Vâng, ông cảm thấy rằng mình cần phải âm thầm thưởng nếm ánh sáng vừa soi chiếu tâm hồn mình.
Và rồi, cầu nguyện trong thâm sâu linh hồn, lần đầu tiên trong đời, ông thầm thốt lên, trong một niềm hân hoan mãnh liệt :
– Lạy Chúa con, Chúa thật vĩ đại biết bao ! Vâng, vĩ đại ! Vĩ đại ! Vâng, chỉ mình Chúa mới là một vị Chúa đủ cao cả để tạo dựng và bảo tồn một kho báu đồ sộ đến vậy – chỉ để bao bọc và che giấu viên ngọc nhỏ bé mà Chúa yêu thương. Ai có thể ngờ được một điều như thế ! Dĩ nhiên, kho báu lớn lao ấy cũng là điều Chúa yêu mến. Nó có giá trị trong mắt Chúa và làm sáng danh Chúa. Nhưng còn viên ngọc nhỏ kia – viên ngọc mà không ai hay biết – mới là lý do đích thực, và có lẽ là duy nhất, khiến kho báu ấy được dựng nên.
*
Vào đầu năm 1947 hoặc 1948, tôi có dịp ghé thăm đan viện Fille-Dieu. Khi ấy, cũng có mặt Đức Viện phụ của đan viện Mont-des-Cats. Trong một bữa ăn chung tại nhà khách, chúng tôi bàn luận về đời sống chiêm niệm, và tôi đã kể dụ ngôn này – lúc ấy vẫn còn rất mới mẻ. Sau bữa ăn, ai nấy trở về phòng mình. Tôi đang ở trong căn phòng được cho mượn thì Cha linh hướng gõ cửa và nói :
– Đức Viện phụ muốn gặp Cha.
Tôi liền đến gặp Dom Achille, ngài mời tôi ngồi cạnh. Sau vài câu trò chuyện tiếp nối từ bữa ăn trưa, ngài nói :
– Câu chuyện của Cha hồi nãy thật là… sao nhỉ ? Tôi không tìm ra chữ…
Tôi thì thầm :
– Khá… độc mồm.
– Phải đấy – ngài nói – đúng là như vậy. Hơi độc một chút. Nhưng, Cha cho tôi dùng lại câu chuyện đó được không, ý tôi là kể lại nó chứ ?
– Rất sẵn lòng – tôi đáp – nếu Cha nghĩ rằng nó có thể gây ra một cú chấn động nho nhỏ cho một vài người.
Liệu có khi nào – khi cộng đoàn chúng ta sống trong một bầu khí thật sự đậm chất đan tu, đủ để dẫn đưa nhẹ nhàng nhiều tâm hồn vào đời sống cầu nguyện chiêm niệm – liệu có khi nào những anh em đọc lại câu chuyện xưa này có thể ngờ rằng nó đã được gợi hứng từ một tâm trạng phổ biến đến mức nào ?
7 tháng 3 năm 1955























