Nếu vì hoàn cảnh đòi buộc hay vì cần thiết hoặc nghèo khó mà chính anh em phải lo canh tác, thì anh em chớ buồn ; chính khi sống bằng thành quả lao động của mình như các đan phụ tiền bối của chúng ta và các tông đồ mà anh em mới thật sự là đan sĩ. Tuy nhiên phải làm việc cách chừng mực vì có những người yếu sức.
Thánh Biển Đức, Tu luật của đan sĩ, chương 48

Nếu có thể, hãy xây cất đan viện sao cho tất cả các thứ cần thiết đều ở bên trong. Như thế các đan sĩ sẽ không cần phải phân tán ra bên ngoài vì sẽ không ích lợi chút nào cho linh hồn họ. Thánh Biển Đức, Tu luật của đan sĩ, chương 66
Đan sĩ tráppít làm việc, có khi một mình, nhưng đa phần là làm việc cùng nhau. Chẳng có gì làm cho họ khác biệt với những người lao động láng giềng của mình : từ trang phục lao động cho đến những phương tiện lao động và cả những ưu tư về thành quả công việc… khác chăng là cái đầu húi cua khi họ nhấc mũ chào ai đó. Song đằng sau dáng vẻ tầm thường này, lý tưởng của những đan sĩ tiền bối, những người vẫn cầu nguyện trong khi làm việc vẫn tiếp tục là lý tưởng mà đan sĩ tráppít ngày nay trân trọng gìn giữ. Vì lý do đó, họ ưu tiên chọn hình thức lao động gắn liền với nông nghiệp chừng nào mà những đòi hỏi về kinh tế còn cho phép làm.


Thánh Biển Đức là người thực tế. Được kêu gọi bước vào một cuộc phiêu lưu phi thường – sống gần gũi với Thiên Chúa và cộng tác vào công trình cứu độ –, người đan sĩ vẫn chỉ là một con người bình thường. Lý tưởng của ơn gọi mình, ngài thực hiện ngay giữa những đòi hỏi chung của mọi đời sống nhân loại. Như thế, để sống, người đan sĩ phải lao động.
Sâu xa hơn, đó là việc thủ đắc một số nhân đức thiết yếu cho đời sống kết hiệp với Thiên Chúa. Lao động là cơ hội để phát triển các nhân đức của sa mạc, những nhân đức mà người đan sĩ cần nhất để nâng đỡ cuộc chiến thiêng liêng: quyết tâm, đều đặn, kiên trì…

« Thật cần thiết biết bao cho các đan sĩ khi làm việc ngoài đồng, dưới mưa, nắng, trong bùn lầy, đất sét và gió! Chính những điều ấy gợi lên cho ta nhân đức, làm cho ta bền vững như mảnh đất nơi ta đang sống. »
— Thomas Merton
Lao động tay chân trong cộng đoàn mang lại ý nghĩa hy sinh: biết trả giá bằng chính bản thân, quên mình đi, trao ban thời giờ và sức lực, mà không mong chờ lời khen ngợi. Chính sự tận hiến mà đời sống cụ thể đem lại này, sách vở đôi khi có thể làm ta quên mất. Thế nhưng, đó lại là một thái độ cốt yếu. Đồng thời, lao động cũng là một học đường của đời sống chung, nơi mà các mối tương quan huynh đệ được hình thành rõ rệt nhất. Như thế, ngoài lòng can đảm và sự bền chí, ngoài ý thức về thực tại và tinh thần trách nhiệm, lao động còn khắc ghi nơi người đan sĩ sự chú tâm đến tha nhân, sự tế nhị, quảng đại, kiên nhẫn – tất cả những phẩm chất mà sự thiếu vắng có thể làm nguy hại đến đời sống cầu nguyện của ngài. Tuy nhiên, ngài không nhất thiết thủ đắc những phẩm chất ấy, và cũng không hẳn là trước hết, trên chính lãnh vực lao động này.

« Sự cao cả của một nghề nghiệp có lẽ, trước hết, là ở chỗ hiệp nhất con người lại với nhau. »
— Antoine de Saint-Exupéry
Cụ thể, lao động tại Sept-Fons
Phần lao động mang lại lợi nhuận – tức bảo đảm đời sống vật chất cho cộng đoàn – chủ yếu dựa vào hoạt động của xưởng mứt và xưởng xay bột Moulin de La Trappe. Doanh nghiệp nhỏ này sản xuất, đóng gói và phân phối toàn bộ các loại thực phẩm bổ sung của chúng tôi. Chúng là những sản phẩm chế biến từ Germalyne, loại thực phẩm nổi tiếng làm từ mầm lúa mì, được phát triển từ những năm 1930 và trở thành sản phẩm chủ lực của chúng tôi. Hai công việc này hiện đang chiếm dụng một tá đan sĩ, với sự hỗ trợ của khoảng sáu công nhân làm việc sáng và chiều.

Phần lao động còn lại thì « nhưng không » hơn. Ngoài các công việc nội trợ (nấu ăn, giặt giũ, kho quần áo, các việc bảo trì và vệ sinh khác), thì chính công việc đồng áng – theo truyền thống lâu đời của Trappiste – đảm nhận vai trò này.
Với khoảng 100 hecta đất nông nghiệp, công việc quả thật không hề thiếu! Công việc này bao gồm chăn nuôi và vắt sữa một đàn bò Normande (khoảng 80 con), với sản lượng sữa được dùng để chế biến phô-mai. Nó còn bao gồm các loại cây trồng cần thiết để nuôi bò (bắp, ngũ cốc, các loại đậu, cỏ khô) và rơm dùng để lót chuồng.
Sản lượng dư thừa được bán ra bên ngoài. Các loại rau củ và trái cây từ vườn rau và vườn cây ăn quả góp phần làm phong phú thêm bữa ăn bằng những sản phẩm tươi theo mùa, dành cho các đan sĩ và cả khách đến thăm. Sau cùng, còn có việc chăm sóc các lùm cây, đường đi, hàng rào và mảng xanh… Trong một cộng đoàn đông đảo, đa số là những người trẻ, đang ở độ tuổi sung sức, hình thức lao động này mang một tầm quan trọng đặc biệt.











