Thánh Biển Đức
Thánh Biển Đức (480-547) khi đang học tại Rôma, Ý, khoảng năm mười sáu tuổi, đã cảm nhận tiếng gọi đến với đời sống đan tu. Từ bỏ mọi sự, ngài lánh riêng, sống một mình trong một hang động ở Subiacô, đồng thời thụ huấn nơi một đan sĩ kinh nghiệm tên là Rômanô.

Tiếng vang của ngài khiến các đan sĩ trong vùng đến mời ngài làm vị lão thành để hướng dẫn họ. Bị Thánh Biển Đức đòi hỏi phải thay đổi nhiều về lối sống bê bối của họ, nên các đan sĩ này đã có ý đầu độc ngài. Thánh Biển Đức vì thế đã rời họ mà đi lên núi Cassinô, nơi sẽ gắn bó cuộc đời và sự rạng danh của ngài. Chính ở núi Cassinô mà Cha Thánh Biển Đức đã viết nên Tu luật của các đan sĩ.
Vào thời Cha Thánh Biển Đức, các tu luật thì cũng đầy dẫy như các đan viện và đời sống đan tu thường không được nề nếp. Cha Thánh Biển Đức đã viết một tu luật khác với những tu luật có trước. Tu luật của ngài, có tính hiện tại đáng kinh ngạc còn mãi có giá trị ở thế kỷ XXI của chúng ta. Ai cũng có thể tiếp cận tu luật này vì nó được tiếng là khúc chiết, có mức độ và tầm quân bình. Tu luật gợi ra cho các đan sĩ những phương tiện rất đỗi đơn sơ để làm cho họ trở thành người chiêm niệm, một người kết hợp với Thiên Chúa. Những phương tiện mà mà Cha Thánh Biển Đức đã lãnh nhận ngang qua Gioan Cassianô, xuất phát từ một truyền thống được quy tầm đến thời kỳ đầu của đời sống đan tu trong các sa mạc ở Ai Cập.
Xitô
Khi thành lập « tân đan viện » vào năm 1098 ở Xitô (180 km về phía bắc Lyon, Pháp), các Thánh Rôbertô, Albêric và Stêphanô cùng các anh em đồng tu, đã không hề có ý định thành lập một dòng tu mới nào cả. Các ngài không tìm kiếm điều cách tân, nhưng là sự trung thành. Khi rời khỏi đan viện của mình, đan viện Molesme nằm ở Đông Bắc nước Pháp, các ngài không có ý đánh đổ quá khứ, nhưng là về nguồn, trở về gốc gác của đời sống đan tu theo tinh thần Biển Đức.

Như nhiều đan sĩ cùng thời, các ngài đã cảm thấy một cơn khát cho điều tuyệt đối. Các ngài đã thổi sinh khí mới vào một thể thức sống đời đan tu nhiều đòi hỏi hơn : các ngài thấy mình cần phải giữ khoảng cách và tự do đối với xã hội đương thời. Các ngài đã muốn tuân thủ Tu luật của Thánh Biển Đức như nó đã được viết ra và tìm kiếm Thiên Chúa với tất cả tấm lòng, trong một đời sống cầu nguyện và lao động.
Thánh Bênađô (1090-1153), vào Xitô vài năm sau khi đan viện này được thành lập, đã trở thành người giải thích kiệt xuất cho những khao khát của các cha thánh sáng lập. Dưới thời ngài sống, vào năm 1132 mà Đan viện Sept-Fons đã ra đời ở miền trung nước Pháp.
Dòng Xitô Nhặt Phép
Trong những thế kỷ tiếp theo, sự nhiệt tình đã có khuynh hướng tuột dốc, đôi khi cũng vì bị cuốn theo những trào lưu chính trị và xã hội mất trật tự. Vào thế kỷ XVII, phong trào « tuân thủ chặt chẽ » (nhặt phép) đã thôi thúc sống lại những phép tuân thủ đan tu chân truyền. Hai viện phụ của trào cải cách đã làm cho phép tuân thủ nhặt có một sức nặng khẳng quyết là Dom Eustache de Beaufort của Đan viện Sept-Fons và Viện phụ Rancé của Đan viện La Trappe. Từ đan viện này đã xuất phát nên tên gọi Tráppít (Trappiste), được đặt cho các đan sĩ mà sau này hợp thành Dòng Xitô Nhặt Phép.

Dù đôi khi trong một vài giai đoạn, điểm nhấn được đặt ở việc hãm mình, thì các đan sĩ tráppít không có tham vọng trước tiên trở thành những người vô địch về khổ chế, nhưng họ chỉ muốn là những con người của cầu nguyện, không ngừng tìm kiếm Thiên Chúa. « Phép nhặt » của họ diễn tả qua ý muốn sử dụng những phương thức cụ thể, được lãnh nhận từ truyền thống đan tu, được thử thách bởi hàng hàng thế hệ đan sĩ, ngõ hầu hiện thực hóa cuộc phiêu lưu cao cả này : một cuộc sống kết hiệp với Chúa và việc dự phần vào phần rỗi của nhân loại.
Đan viện Sept-Fons
Từ năm 1132, ở miền trung nước Pháp, các đan sĩ tìm kiến Thiên Chúa tại Đan viện Đức Mẹ Sept-Fons. Sở dĩ mang tên gọi « Bảy Nguồn Nước » vì bên dưới và xung quanh đan viện đều rất nhiều nước. Ban đầu số đan sĩ chỉ ít ỏi, sau đó đan viện ngày càng được biết đến hơn khởi đi từ thế kỷ XVII, dưới thời Dom Eustache de Beaufort làm Viện phụ. Những dãy nhà hiện tại có niên đại từ thế kỷ XVIII, giai đoạn mà đan viện nhận vào làm tập sinh Thánh Biển Đức-Giuse Labre, quan thầy của những người hành hương.
Cách mạng Pháp năm 1789 làm gián đoạn sự hiện diện của các đan sĩ ở Sept-Fons trong vòng nửa thế kỷ. Nhiều đan sĩ đã chết vì tuyên xưng đức tin vào Đức Kitô và tuyệt đối trung thành với Giáo Hoàng. Hai trong các vị tử đạo đã được Đức Thánh Cha Gioan-Phaolô II phong chân phước năm 1995 là Paul và Elie de Sept-Fons.

Trong số những tượng đài lỗi lạc xuất thân từ cộng đoàn này vào thế kỷ XX, ta có thể nêu lên Viện phụ Dom Jean-Baptiste Chautard (1858-1935), tác giả của quyển L’âme de tout apostolat (Hồn tông đồ), cũng như Cha Jérôme (1907-1985) với các tác phẩm tu đức kinh điển đã được dịch sang tiếng Việt.
Các đan sĩ sống tại Sept-Fons ngày nay là những hậu duệ của những người đã từng sống, lao tâm lao lực và trên hết là cầu nguyện cho thế giới từ chín thế kỷ qua, tại nơi này.
Tại Việt Nam
Chúa Quan Phòng đã dẫn đến đan viện Sept-Fons những người thành tâm tìm kiếm Chúa từ nhiều châu lục khúc nhau. Từ gần mười năm qua, nhịp cầu nối tiếp nhịp cầu, các bạn trẻ Việt Nam đã có thể hiện thực hóa ước muốn sống dâng mình cho Chúa trong đời sống cầu nguyện tại nơi đây.
Đan viện Sept-Fons đã thành lập nhiều nhà con tại nhiều quốc gia. Nếu Chúa muốn, Sept-Fons cũng sẽ thành lập đan viện tráppít tại Việt Nam, để cho đặc sủng của đan sĩ tráppít, của đời sống cầu nguyện chiêm niệm trong dòng kín, có thể nâng đỡ cho Giáo hội tại đất nước này.