Đời sống tráppít tại Đan viện Sept-Fons
Cha Jérôme là một sư huynh « tráppít ». Đấy là tên thường gọi dành cho các đan sĩ của Dòng Xitô Nhặt Phép (OCSO). Ta cũng bắt gặp nơi Dòng này một tên tuổi lỗi lạc là Thomas Merton, tác giả của tự truyện kinh điển The Seven Storey Mountain (Ngọn núi bảy tầng). Dòng các đan sĩ tráppít thuộc về gia đình đan tu theo tinh thần của Thánh Biển Đức, Tổ Phụ của nền đan tu Tây phương.
Khi sống theo Tu luật Thánh Biển Đức, đan sĩ tráppít dâng mình cho Chúa trong đời sống cầu nguyện. Cầu nguyện và lectio divina ; lao động tay chân như một phương kế sinh nhai ; một cuộc sống huynh đệ nhiều đòi hỏi, trong đó các đan sĩ lúc nào cũng sống chung trong mọi sinh hoạt – bao gồm cả việc ngủ nghỉ trong nhà ngủ – nhưng luôn giữ thinh lặng, trừ những điều cần thiết cho công việc ; một cuộc sống diễn tiến trong nội vi đan viện để duy trì sự hiện diện thường trực trước Nhan Chúa : tất cả những yếu tố này là cần thiết để quân bình cuộc sống đan tu.
Nếu có xu hướng khiếm khuyết một trong yếu tố trên, thì cuộc sống của đan sĩ sẽ chuốc lấy sự mất quân bình, như thể chiếc bàn có một chân thấp hơn các chân khác. Chính từ tình huống tương tự ấy đã ra đời, vào cuối thế kỷ XI cuộc cải cách của Xitô, và các vị sáng lập Dòng Xitô không có tham vọng nào hơn là quay về với việc thực hành Tu luật Thánh Biển Đức, trong sự quân bình và đơn sơ của nó. Dòng đã phát triển một cách sâu rộng với Thánh Bênađô (1090-1153). Dưới thời ngài sống mà Đan viện Sept-Fons đã thành lập, năm 1132 ở miền trung nước Pháp.
Những thế kỷ tiếp theo, sự nhiệt tình có khuynh hướng giảm thiểu, đôi khi bị cuốn theo những xáo trộn lớn về chính trị, xã hội. Vào thế kỷ XVII, phong trào « nhặt phép » đã thúc đẩy việc sống lại những phép tuân thủ đan tu chân truyền hơn. Hai viện phụ của phong trào cải cách đã tiếp thêm sức bật quyết định chính là : Dom Eustache de Beaufort ở Đan viện Sept-Fons và Viện phụ Rancé, ở Đan viện La Trappe. Từ Đan viện « Tráp Cả » này đã dẫn đến tên gọi Tráppít mà về sau sẽ trở thành Dòng Xitô Nhặt Phép.
Mặc dầu một vài giai đoạn còn nhấn mạnh nhiều đến việc hãm mình, song các sư huynh tráppít không có tham vọng trước tiên trở thành những nhà vô địch về khổ chế ; họ chỉ muốn trở nên những con người của cầu nguyện, không ngừng khát khao tìm kiếm Thiên Chúa. « Phép nhặt » của họ diễn tả qua ý muốn sử dụng những phương thức cụ thể, được lãnh nhận từ truyền thống đan tu, được thẩm định bởi hàng hàng các thế hệ đan sĩ, ngõ hầu hiện thực hóa cuộc phiêu lưu cao cả là được kết hiệp với Chúa, nhờ thế mà dự phần vào vinh quang của Thiên Chúa và ơn cứu rỗi của nhân loại.
Đan sĩ không buộc phải là những người đạo đức hay nhân đức hơn người khác. Họ là một người như mọi người, mà tiếng gọi của Chúa đã lôi kéo họ khỏi cuộc sống đời thường để hướng về Đức Kitô. Nếu họ phải từ bỏ tất cả, điều đó không hề là khinh khi những thứ đã thoát ly, nhưng từ bỏ là nhằm cái hơn : « Nếu anh muốn nên hoàn thiện, hãy đi, bán tất cả những gì anh có, rồi ĐẾN và THEO TA… » (Mt 19, 21).
Quyết định đáp lại tiếng gọi này chỉ mới là bước đầu của hành trình học việc còn dài. Vì chưng đời sống cầu nguyện cũng cần phải học. Thánh Phụ Biển Đức gọi đan viện là « trường học phụng sự Chúa ». Ngày nay điều đó còn xác đáng hơn khi mà những bạn trẻ cần một nền giáo dục hoàn bị, vừa nhân bản, vừa trí thức, vừa thiêng liêng. Và giả như, trong ngôi trường này, đan sĩ phải nếp mình vào một kỷ luật nào đấy, thì chính vì nhắm đến tính hiệu quả cho việc quy hướng về Chúa của đan sĩ.
Một ngày sống của sư huynh tráppít tại Sept-Fons diễn ra thế nào ?
Tùy theo mùa mà có thể có vài thay đổi, đan sĩ thức dậy lúc 3g15.
3g30, giờ Kinh Canh Thức, kéo dài độ một tiếng, sau đó là nửa tiếng cầu nguyện thinh lặng.
5g đến 6g15, giờ đọc sách (lectio divina), hoặc đối với vài người cũng là giờ… nghỉ ngơi đôi chút !
Vào lúc 6g25 cách ngày tại Nhà Hội, Viện phụ sẽ chú giải Tu luật Thánh Biển Đức, ứng với nhu cầu và tình huống hiện tại của cộng đoàn.
6g45, Kinh Sáng – giờ kinh khởi đầu ngày mới – và Thánh Lễ.
8g đến 9g15, giờ cầu nguyện cá nhân hay đọc sách.
9g15, Kinh Giờ Ba – giờ kinh giữa ban sáng, tiếp theo là giờ lao động trong thinh lặng, dành cho mọi đan sĩ, linh mục cũng như không linh mục.
12g15, Kinh Giờ Sáu – giờ kinh giữa ngày ; ăn trưa, tiếp nối là nghỉ trưa hoặc cầu nguyện, đọc sách.
14g15, Kinh Giờ Chín – giờ kinh khởi đầu buổi chiều, rồi lao động tay chân.
17g30, giờ cầu nguyện thinh lặng, Kinh Chiều sau đó lại cầu nguyện thinh lặng, rồi ăn tối.
Trước Kinh Tối, mọi người quy tụ tại Nhà Hội – nhưng không trọng thể như ban sáng – để nghe đọc sách thiêng liêng, tập hát hoặc đến một nơi khác để làm đồ légumes (gọt rau củ).
19g30, Kinh Tối – giờ thần vụ đánh dấu đêm đến, kết thúc với bản thánh ca long trọng Salve Regina mà tất cả các đan sĩ xitô đều hát mỗi tối từ thế kỷ XII để diễn tả tình con thảo với Đức Mẹ Diễm Phúc để đặt mình dưới sự che chở của Mẹ.
Khoảng 20g, Viện phụ chúc lành cho từng người. Tiếp đến là giờ Đại Thinh Lặng ban đêm và nghỉ đêm.
Linh hồn của cuộc sống thường nhật trong đan viện chính là cầu nguyện, dưới hình thức phụng vụ qua việc cử hành Thánh Lễ, các giờ Kinh Thần Vụ, và dưới hình thức thinh lặng trong nguyện ngắm và cầu nguyện thường trực.
« Không chuộng gì hơn ngoài Việc của Thiên Chúa », Thánh Phụ Biển Đức đã viết về Thần Vụ như thế, một nhiệm vụ trên hết của đan sĩ. Đan sĩ hát kinh nhân danh Giáo hội và toàn thể nhân loại, vì chưng ngợi khen vinh danh Chúa vì muôn ơn huệ Người ban, nài xin trợ lực thần thiêng không phải việc làm cho qua thời gian, nhưng là một bổn phận của thụ tạo đối với Đấng Tạo Hóa và Đấng Cứu Độ của mình.
Trong việc tìm kiếm Chúa, đan sĩ tráppít dành nhiều thời gian mỗi ngày cho cầu nguyện thinh lặng trước Thánh Thể, nơi sự Hiện Diện của Chúa thật sự nhưng không cảm được bằng giác quan, ngỏ lời với đức tin của chúng ta. Truyền thống đan tu cống hiến cho đan sĩ những phương tiện khiêm hạ nhưng chắc chắn để kéo dài việc cầu nguyện thông thường là khô khan, giữ cho cầu nguyện khỏi mơ mộng hoặc gấp nếp trên chính mình và để cầu nguyện trở thành việc đặt mình sẵn sàng dưới tác động của Thánh Thần, Đấng duy nhất, dẫn dắt đan sĩ vào cầu nguyện chiêm niệm.
Thần Vụ và nguyện ngắm kết thúc, phải chăng cầu nguyện cũng theo đó dừng lại ? Thánh Antôn Ai Cập đã khuyên những đan sĩ đầu tiên hãy « hít thở Đức Kitô », hãy luôn đặt trên môi lời khẩn cầu nhắc đến Thánh Danh. Lời khẩn cầu, hay thường gọi là lời nguyện tắt, sẽ tự khuôn đúc lên lời bộc bạch diễn tả những khát khao sâu thẳm nhất trong lòng, nhờ đó mà đan sĩ không ngừng trở về cùng Chúa trong suốt ngày sống.
Đan sĩ cũng ưu tư cho anh em đồng loại. Khi hòa quyện lời cầu nguyện của mình vào lời cầu nguyện của Đức Giêsu, lúc đó đan sĩ cầu nguyện cho nhân loại, người còn sống cũng như đã qua đời, người có đức tin hay không có đức tin, người thân thuộc cũng như những ai mình không biết đến. Không phải để kẻ xấu trở thành người tốt… nhưng để tất cả đạt đến hạnh phúc và chân lý.
Và không chỉ là chuyển cầu cho tha nhân, đan sĩ còn tự đặt mình trong vị trí của họ trước Nhan Chúa. Vì chưng đan sĩ có thể cầu nguyện, đón nhận ân sủng, yêu mến Thiên Chúa, không chỉ cho phần ích bản thân mà còn trong vị trí của tất cả những ai không cầu nguyện. Nhờ đó mà, một cách nhiệm mầu, đan sĩ dẫn đưa họ đến gần với Chúa.
Một đan sĩ tráppít không bon bon một mình trên hành trình hướng về Chúa : anh kéo theo mình, cột với mình, bằng những mối dây vô hình, muôn muôn người khác nữa. Trước hết là các kitô hữu, những người luôn cần tiếp sức để bước theo Đức Kitô. Nhưng còn là những người mà cánh cửa hướng về Chúa chỉ mới hé mở : những ai đã khởi sự tìm kiếm nhưng chưa thỏa mãn trong ngoại giáo, Phật giáo, tìm kiếm nhưng chỉ thấy trống rỗng trong chủ nghĩa duy vật, những ai vẫn còn rối bời vì tim mình vẫn chưa thỏa khát khao. Và thậm chí những người dửng dưng, người mù tối, người vô thần gay gắt nhất : làm sao để đạt được ân sủng cho họ từ một chuyển động ban đầu hướng về Chúa, nếu không bởi cầu nguyện nhằm đốc thúc uy quyền thần thiêng diệu huyền ? Đời sống tráppít quả thật mang đậm tính truyền giáo !
Gạt Thiên Chúa ra thì đời sống đan tu chẳng còn ý nghĩa. Nhưng vì cùng chia sẻ đức tin của Giáo hội, đan sĩ tráppít hiểu rằng Thiên Chúa gọi một số người toàn tâm phụng sự Người, và bước vào tình thân mật với Chúa, chính là con đường tốt nhất để cuộc sống của họ có giá trị cá nhân và mang lại hiệu quả cho phần rỗi của thế giới.